Đã có nhiều chính sách quản lý, bảo vệ và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên
Phát biểu tại phiên đối thoại, ông Nguyễn Ngọc Anh - Phó Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Kinh tế đối ngoại (Bộ Tài chính) cho biết, chính sách phát triển bền vững gắn với khai thác tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài chính xanh là chủ đề rất quan trọng đối với Việt Nam và cũng là trọng tâm trong quá trình xây dựng chính sách hiện nay. Đối với Việt Nam, than và dầu khí là hai nhóm tài nguyên có quy mô lớn nhất. Chính vì vậy, Việt Nam mong muốn được tham khảo và học hỏi kinh nghiệm quản lý thuế nguồn lực quan trọng này để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững, đồng thời đảm bảo sử dụng hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả nguồn tài nguyên quốc gia.
| Theo đại diện Cục Quản lý giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí, chính sách thuế và phí hiện hành đã cơ bản bám sát chủ trương của Nhà nước và đồng bộ với pháp luật về khoáng sản, đóng góp tích cực vào quản lý hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên và từng bước thúc đẩy chế biến sâu. Tuy nhiên, sau khi nhiều luật chuyên ngành như Luật Địa chất và Khoáng sản, Luật Môi trường, Luật Dầu khí được sửa đổi, một số quy định thuế đã không còn phù hợp, đòi hỏi phải được nghiên cứu điều chỉnh. |
Chia sẻ về chính sách thuế liên quan đến tài nguyên khoáng sản của Việt Nam, ông Bùi Minh Tuấn - Phó Trưởng phòng Thuế tài sản và tài nguyên, Cục Quản lý giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí cho biết, tài nguyên khoáng sản trên thế giới đều là tài nguyên hữu hạn, không tái tạo, và là nguồn lực kinh tế đặc biệt quan trọng trong bối cảnh cạnh tranh địa chính trị ngày càng gay gắt. Việt Nam được đánh giá có trữ lượng khoáng sản đa dạng, tuy nhiên quá trình khai thác nhanh thời gian qua khiến một số loại khoáng sản đối mặt nguy cơ cạn kiệt, đồng thời gia tăng các tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội. Trước thực tế này, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm quản lý, bảo vệ và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên, trong đó chính sách thuế, phí giữ vai trò quan trọng, điều tiết đầy đủ các khâu từ khai thác đến tiêu thụ.
Ở khâu khai thác, doanh nghiệp được cấp phép phải thực hiện một loạt nghĩa vụ tài chính như: . phí cấp phép khai thác khoáng sản; tiền cấp quyền khai thác khoáng sản; thuế tài nguyên; phí bảo vệ môi trường.
Ở khâu tiêu thụ, doanh nghiệp khai thác khoáng sản nộp thuế thu nhập doanh nghiệp với mức thuế suất phổ thông 20%. Đối với khai thác khoáng sản quý hiếm thuế suất là 50%, và trường hợp mỏ nằm chủ yếu trong địa bàn đặc biệt khó khăn thì mức thuế suất giảm còn 40%.
Ông Bùi Minh Tuấn cho biết, chính sách thuế không ưu đãi cho khai thác thô, mà tập trung ưu đãi thuế cho doanh nghiệp chế biến sâu bằng công nghệ cao nhằm nâng cao giá trị gia tăng của tài nguyên. Thuế giá trị gia tăng đối với khoáng sản về cơ bản áp dụng mức 10%, một số loại quặng phục vụ sản xuất phân bón áp dụng 5%, còn khoáng sản xuất khẩu chưa hoặc đã qua chế biến theo danh mục quy định thì thuộc đối tượng không chịu thuế, nhằm hạn chế xuất khẩu nguyên liệu thô.
Đối với thuế xuất khẩu, mức thuế được xây dựng theo nguyên tắc thuế suất tăng dần đối với dạng nguyên liệu thô và giảm dần đối với sản phẩm chế biến để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư chế biến sâu. Ngoài ra, doanh nghiệp đầu tư vào khai thác và chế biến tại địa bàn hoặc ngành nghề ưu đãi đầu tư còn được hưởng ưu đãi thuế nhập khẩu. Riêng mặt hàng than còn phải nộp thuế bảo vệ môi trường với mức từ 15.000–30.000 đồng mỗi tấn.
Theo đại diện Cục Quản lý giám sát chính sách thuế, phí và lệ phí, chính sách thuế và phí hiện hành đã cơ bản bám sát chủ trương của Nhà nước và đồng bộ với pháp luật về khoáng sản, đóng góp tích cực vào quản lý hoạt động khai thác, sử dụng tài nguyên và từng bước thúc đẩy chế biến sâu. Tuy nhiên, sau khi nhiều luật chuyên ngành như Luật Địa chất và Khoáng sản, Luật Môi trường, Luật Dầu khí được sửa đổi, một số quy định thuế đã không còn phù hợp, đòi hỏi phải được nghiên cứu điều chỉnh.
Từ thực tiễn này, ông Bùi Minh Tuấn đề xuất tiếp tục xây dựng hệ thống chính sách thuế và phí đồng bộ, bảo đảm thuế thực sự là công cụ quản lý hiệu quả đối với tài nguyên. Đồng thời, cần rà soát toàn diện các luật chuyên ngành để bảo đảm tính thống nhất, giúp định hướng hoạt động khai thác theo hướng bền vững và khuyến khích sử dụng công nghệ thân thiện với môi trường.
Bên cạnh đó, việc hoàn thiện chính sách thuế phải hướng tới thúc đẩy chế biến sâu, hạn chế tối đa xuất khẩu tài nguyên thô, góp phần bảo vệ và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên không tái tạo. Trong tương lai, chính sách thuế cần tạo động lực để doanh nghiệp đầu tư công nghệ tiên tiến, tập trung khai thác các mỏ có điều kiện khó khăn hoặc hàm lượng thấp, đồng thời gắn nguồn thu từ khoáng sản với nhiệm vụ phát triển địa phương nơi có mỏ, cải thiện đời sống người dân và phục hồi môi trường, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế.
Ông Tuấn Bùi Minh Tuấn cũng bày tỏ mong muốn tiếp tục nhận được ý kiến trao đổi từ các cơ quan liên quan để góp phần hoàn thiện chính sách thuế trong lĩnh vực tài nguyên khoáng sản.
Sẵn sàng trao đổi chuyên sâu
Tại phiên Đối thoại, bà Đặng Thị Hương – Kế toán trưởng Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) đã chia sẻ nhiều nội dung liên quan đến chính sách thuế tài nguyên áp dụng đối với doanh nghiệp. Các nội dung được trình bày gồm cơ sở pháp lý, kết quả thực hiện, những khó khăn, vướng mắc trong quá trình kê khai, nộp thuế và các kiến nghị nhằm hoàn thiện chính sách.
Đại diện Bộ Ngân khố Australia đã chia sẻ nhiều thông tin liên quan đến công tác quản lý thuế tại Australia, cho biết những vấn đề phát sinh tại Việt Nam hiện cũng tương đồng với Australia, như quản lý giá chuyển nhượng, thuế đối với giao dịch nội bộ hay thuế tài nguyên. Riêng về thuế tài nguyên, Australia cũng gặp nhiều thách thức trong quá trình xây dựng và hoàn thiện chính sách.
Bà Ineke Remond – Quyền Cục trưởng Cục Kinh tế quốc tế và An ninh, Bộ Ngân khố Australia cho biết hệ thống thuế tài nguyên của Australia tồn tại nhiều khó khăn do sự thiếu nhất quán trong quản lý khoáng sản. Bà nhấn mạnh rằng hệ thống thuế có nhiều mục tiêu khác nhau, đòi hỏi thiết kế chính sách linh hoạt để đáp ứng từng giai đoạn phát triển.
Đại diện Bộ Ngân khố Australia bày tỏ mong muốn hai bên sẽ có những buổi trao đổi chuyên sâu hơn, với sự tham gia của cả cơ quan thuế Australia, nhằm thảo luận chi tiết về các vấn đề liên quan. Về mặt lý thuyết, phía Australia có thể mô tả đầy đủ các mô hình quản lý và phân tích dữ liệu; đồng thời, cơ quan thuế của họ được trao quyền tiếp cận nguồn dữ liệu rất lớn và chi tiết về doanh nghiệp, trong đó có nhiều thông tin mật. Tuy nhiên, Australia sẵn sàng chia sẻ các nội dung cần thiết, đặc biệt liên quan tới quản lý khoáng sản chiến lược.










