Vai trò tín dụng xanh trong thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam: Thực trạng và hàm ý chính sách
Tác giả chính: Lâm Thị Kim Liên, Trần Thị Mạo, Nguyễn Phương Tường Lan
Vũ Đức Trọng, Phạm Thị Thúy Diễm
Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả liên hệ: Nguyễn Vũ Hoàng Ý
Viện Nghiên cứu Khoa học và Công nghệ Ngân hàng, Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí Minh
Email: ynvh@hub.edu.vn
Tóm tắt
Chuyển đổi sang nền kinh tế carbon thấp của Việt Nam đòi hỏi đầu tư đáng kể vào năng lượng tái tạo, trong đó lĩnh vực ngân hàng đóng vai trò then chốt trong huy động vốn. Giai đoạn 2021 - 2023, dư nợ tín dụng xanh tăng trưởng mạnh nhưng chiếm tỷ trọng khá nhỏ trong tổng dư nợ nền kinh tế. Nghiên cứu phân tích thực trạng tín dụng xanh trong hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo, từ đó nhóm tác giả đề xuất một số chính sách như hoàn thiện khung pháp lý, thúc đẩy cơ chế giảm thiểu rủi ro, nâng cao năng lực trong lĩnh vực ngân hàng, khuyến khích quan hệ đối tác quốc tế và tạo ra các ưu đãi cho hoạt động cho vay xanh... Những khuyến nghị này nhằm hỗ trợ Việt Nam đạt mục tiêu năng lượng tái tạo và phát triển bền vững dài hạn.
Từ khóa: Phát triển bền vững, ngân hàng xanh, tín dụng xanh, năng lượng tái tạo
Summary
Viet Nam’s transition to a low carbon economy requires substantial investment in renewable energy, in which the banking sector plays a pivotal role in mobilizing capital. Between 2021 and 2023, outstanding green credit loans experienced rapid growth but still accounted for a relatively small share of total outstanding loans in the economy. The study analyzes the current status of green credit in supporting renewable energy development. Based on the findings, the authors propose several policy recommendations, including improving the legal framework, promoting risk mitigation mechanisms, enhancing capacity within the banking sector, encouraging international partnerships, and creating incentives for green lending. These recommendations are intended to help Viet Nam achieve its renewable energy targets and long term sustainable development goals.
Keywords: Sustainable development, green banking, green credit, renewable energy
Đặt vấn đề
Tại Việt Nam cũng như nhiều quốc gia đang phát triển, nhu cầu năng lượng ngày càng gia tăng do quá trình công nghiệp hóa, đô thị hóa và sự gia tăng dân số (IEA, 2024; World Bank, 2023b; Avtar & cộng sự, 2019). Sự phụ thuộc đáng kể vào nhiên liệu hóa thạch trong sản xuất điện, kết hợp với mức độ dễ bị ảnh hưởng bởi tác động của biến đổi khí hậu, đã khiến Chính phủ đẩy mạnh chuyển hướng sang phát triển năng lượng tái tạo (UNDP, 2021; IRENA, 2021; Nguyen & cộng sự, 2021; Nguyen & cộng sự, 2019; Urban & cộng sự, 2018). Do đó, chuyển đổi sang năng lượng tái tạo đóng vai trò vô cùng quan trọng trong cuộc chiến chống biến đổi khí hậu và đạt được các mục tiêu phát triển bền vững toàn cầu (UN, 2015; IRENA, 2021; Cantarero, 2020; Nastasi & cộng sự, 2022; Siciliano & cộng sự, 2021). Khi Việt Nam tiếp tục chuyển dịch khỏi nhiên liệu hóa thạch, việc phát triển các nguồn năng lượng tái tạo như gió, mặt trời, thủy điện và sinh khối đã tăng tốc (IEA, 2024; World Bank, 2023a; Nguyen & cộng sự, 2021). Tuy nhiên, việc chuyển sang sử dụng năng lượng tái tạo trên diện rộng đòi hỏi nguồn lực tài chính lớn để đầu tư vào phát triển hạ tầng, ứng dụng công nghệ tiên tiến và mở rộng quy mô hoạt động (Mazzucato & Semieniuk, 2018; Raikar & Adamson, 2024; Steffen, 2018). Do vậy, tài chính xanh nói chung và tín dụng xanh nói riêng đã nổi lên như một công cụ hỗ trợ chính trong việc huy động vốn cần thiết để tài trợ cho các dự án năng lượng tái tạo (OECD, 2021; IFC, 2020; Rasoulinezhad & Taghizadeh-Hesary, 2022; Sharma & cộng sự, 2022).
Đẩy mạnh phát triển tín dụng xanh là một trong những ưu tiên trọng tâm trong chiến lược quốc gia của Việt Nam nhằm bảo đảm an ninh năng lượng, cắt giảm phát thải khí nhà kính và thực hiện các cam kết ở cấp quốc gia và quốc tế. Kể từ năm 2012, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách cấp trung ương nhằm thúc đẩy tăng trưởng xanh, tiêu biểu như: Quyết định số 1393/QĐ-TTg về Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050; Quyết định số 403/ QĐ-TTg về Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh; Quyết định số 2053/QĐ-TTg về Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu…
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cũng đã ban hành nhiều chính sách cụ thể liên quan đến tín dụng xanh như: Quyết định số 1604/QĐ-NHNN phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam; Quyết định số 1552/QĐ-NHNN về Kế hoạch hành động của ngành ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020; Chỉ thị số 03/CT-NHNN về việc thúc đẩy tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường - xã hội trong hoạt động tín dụng. Tổng thể các chính sách tín dụng xanh của Việt Nam được hệ thống hóa như Hình 1.
![]() |
| Nguồn: Tổng hợp của nhóm tác giả |
Mặc dù Chính phủ Việt Nam đã có nhiều nỗ lực cải cách theo định hướng xuyên suốt từ trên xuống nhưng vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình xây dựng một hệ thống năng lượng bền vững. Những năm gần đây, hệ thống ngân hàng đã đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp tài chính cho các dự án năng lượng tái tạo và đạt những kết quả tích cực, tuy nhiên, vẫn còn tồn tại không ít rào cản cản trở khả năng hỗ trợ hiệu quả. Với vai trò là cơ quan quản lý tiền tệ trung ương, NHNN giữ vị trí then chốt trong việc kiến tạo môi trường thuận lợi cho tài chính xanh. Vì vậy, nghiên cứu này nhằm cung cấp một cái nhìn tổng quan về tình hình tín dụng xanh trong việc thúc đẩy phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam, làm rõ những thành tựu đã đạt được, tồn tại và hạn chế, từ đó đề xuất các hàm ý chính sách phù hợp cho NHNN trong bối cảnh hiện nay.
Thực trạng tín dụng xanh tại Việt Nam
Kết quả đạt được
Giai đoạn 2015 - 2023, dư nợ tín dụng của nền kinh tế tăng đều qua các năm (Hình 2a), phản ánh xu hướng mở rộng tín dụng và khả năng tiếp cận vốn của các dự án năng lượng tái tạo. Số liệu cho thấy vai trò quan trọng của hệ thống ngân hàng trong cung cấp vốn cho nền kinh tế và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế quốc gia. Từ năm 2015 đến 2018, dư nợ tín dụng xanh tăng nhanh, phản ánh sự quan tâm và ưu tiên của Việt Nam đối với các dự án tài chính bền vững, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, công nghệ sạch và quản lý môi trường. Từ năm 2018 đến 2020, tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng xanh có xu hướng chững lại. Trong giai đoạn 2021 - 2023, dư nợ tín dụng xanh tiếp tục tăng trưởng, đạt mức cao nhất vào năm 2023. Điều này cho thấy sự thúc đẩy mạnh mẽ từ các chính sách khuyến khích tài chính xanh của Chính phủ và nhu cầu vốn cho các dự án thân thiện với môi trường. Hiện nay, một số tổ chức tín dụng (TCTD) đã và đang triển khai các chương trình ưu đãi lãi suất dành cho tín dụng xanh nói chung và năng lượng tái tạo nói riêng. Nhiều gói tín dụng ưu đãi được đưa vào thực hiện nhằm hỗ trợ phát triển năng lượng tái tạo, góp phần giảm phát thải khí CO₂ và thúc đẩy tăng trưởng bền vững (World Bank, 2023c).
![]() |
| Nguồn: NHNN |
NHNN đã chủ động triển khai nhiều biện pháp hỗ trợ tài chính trong nước cho các dự án năng lượng sạch và được những kết quả tích cực trong hỗ trợ tài chính cho các dự án năng lượng sạch và bền vững. Tuy tín dụng xanh tăng trưởng mạnh mẽ, nhưng tỷ trọng của nó trong tổng dư nợ toàn nền kinh tế vẫn còn ở mức thấp. Điều này cho thấy tín dụng xanh vẫn là một lĩnh vực tiềm năng, cần được chú trọng hơn để đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.
Theo số liệu từ Vụ Tín dụng các ngành kinh tế của NHNN, giai đoạn 2017-2023, dư nợ tín dụng xanh tăng trưởng trung bình trên 22% mỗi năm, vượt xa mức tăng trưởng tín dụng bình quân toàn nền kinh tế. Tính đến ngày 31/12/2023, dư nợ tín dụng xanh tại 47 TCTD đạt 620.985 tỷ đồng, chiếm khoảng 4,5% tổng dư nợ của nền kinh tế và tăng 24% so với năm 2022. (Hình 2b).
Trong 12 lĩnh vực xanh được NHNN hướng dẫn cho vay, tín dụng tập trung chủ yếu vào năng lượng tái tạo và năng lượng sạch (chiếm 46%), tiếp theo là nông nghiệp xanh (chiếm 29,5%), lâm nghiệp bền vững (chiếm 5%), công nghiệp xanh (chiếm 0,5%), và các lĩnh vực xanh khác (chiếm 19%). Đáng chú ý, dư nợ tín dụng được đánh giá có rủi ro môi trường cũng tăng đều qua các năm, đạt khoảng 2,7 triệu tỷ đồng, tương đương hơn 20% tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế.
![]() |
| Nguồn: NHNN. |
Tỷ trọng tín dụng xanh dành cho năng lượng tái tạo và năng lượng sạch đã tăng mạnh từ 3,29% năm 2018 lên 45,77% năm 2023 (Hình 3). Ngược lại, tỷ trọng tín dụng cho các lĩnh vực như nông nghiệp xanh, công nghiệp xanh và lâm nghiệp bền vững giảm tương đối, phản ánh sự thay đổi chiến lược đầu tư theo hướng ưu tiên năng lượng sạch.
Giai đoạn 2017 - 2021, tỷ trọng dư nợ tín dụng năng lượng tái tạo và năng lượng sạch tăng hơn 9 lần, cho thấy sự chuyển dịch mạnh mẽ trong chiến lược phát triển của các ngân hàng và tổ chức tài chính để đáp ứng nhu cầu về năng lượng bền vững. Giai đoạn 2021 - 2023, dù có giảm nhẹ nhưng tỷ trọng vẫn duy trì trên 45%, khẳng định vai trò trung tâm của các dự án năng lượng tái tạo trong cơ cấu tín dụng xanh (Hình 4).
![]() |
| Nguồn: NHNN. |
Về thời hạn cho vay, tín dụng trung và dài hạn chiếm gần như toàn bộ dư nợ tín dụng trong lĩnh vực năng lượng tái tạo và năng lượng sạch trong giai đoạn 2017 - 2023 (Hình 5). Cho vay ngắn hạn chỉ chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Cấu trúc này phù hợp với đặc thù của các dự án năng lượng tái tạo vốn yêu cầu thời gian thu hồi vốn dài. Tuy nhiên, việc duy trì cơ cấu này cũng đặt ra thách thức cho các ngân hàng trong việc tuân thủ các giới hạn an toàn vốn. Theo quy định tại Thông tư số 22/2019/TT-NHNN và các văn bản sửa đổi, tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn để cho vay trung - dài hạn đã được điều chỉnh giảm dần từ 40% (năm 2020) xuống còn 30% kể từ tháng 10/2022.
![]() |
| Nguồn: NHNN. |
Hình 6 cho thấy tỷ lệ nợ quá hạn trên dư nợ tín dụng năng lượng tái tạo, năng lượng sạch bắt đầu ở mức rất thấp. Từ mức 0,001% năm 2018, tỷ lệ này tăng lên 0,97% năm 2019, đây là mức cao nhất trong giai đoạn 6 năm (2018-2023). Sau đó, tỷ lệ nợ quá hạn giảm xuống 0,68% vào năm 2020, trước khi tiếp tục giảm mạnh xuống 0,22% năm 2021. Giai đoạn 2022 - 2023, tỷ lệ dao động nhẹ quanh mức 0,26%-0,27%, cho thấy sự ổn định tương đối. Tỷ lệ nợ quá hạn hiện tại ở mức thấp là dấu hiệu tích cực, cho thấy lĩnh vực năng lượng tái tạo tại Việt Nam đã bước vào giai đoạn phát triển bền vững hơn.
![]() |
| Nguồn: NHNN |
Tóm lại, giai đoạn 2015 - 2023, tín dụng tại Việt Nam tăng trưởng ổn định, với tín dụng xanh ghi nhận đà tăng đáng kể, đặc biệt từ năm 2021 nhờ các chính sách hỗ trợ cùng với sự gia tăng nhu cầu đầu tư vào năng lượng tái tạo và công nghệ sạch. Tốc độ tăng trưởng trung bình của tín dụng xanh vượt mức 22% mỗi năm, với dư nợ đạt trên 620.000 tỷ đồng vào cuối năm 2023, chiếm khoảng 4,5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế. Nguồn vốn này chủ yếu tập trung vào lĩnh vực năng lượng tái tạo và năng lượng sạch. Tuy nhiên, cơ cấu tín dụng trung và dài hạn vẫn tạo áp lực đối với việc tuân thủ các quy định về an toàn vốn. Mặc dù tỷ lệ nợ quá hạn được giữ ở mức thấp, phản ánh tính hiệu quả và bền vững của tín dụng xanh, lĩnh vực này vẫn cần được tiếp tục ưu tiên thúc đẩy mạnh mẽ.
Một số tồn tại và hạn chế
Mặc dù Việt Nam có tiềm năng dồi dào về năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió, sinh khối và thủy điện, nhưng việc phát triển lĩnh vực này vẫn đang gặp nhiều trở ngại, trong đó nổi bật là các vấn đề liên quan đến khung thể chế và hệ thống tài chính - ngân hàng.
Thứ nhất, hạn chế về chính sách và pháp lý. Phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam bị cản trở một phần bởi quy hoạch và chính sách chưa đồng bộ, thiếu cơ chế giá dài hạn, hỗ trợ tài chính ổn định. Các ưu đãi thuế, trợ cấp xanh và công cụ định giá carbon hiện chưa đầy đủ hoặc chưa triển khai thực chất. Đồng thời, khung pháp lý về tài chính xanh và đầu tư xanh vẫn đang trong quá trình hoàn thiện, dẫn đến sự không chắc chắn cho các nhà đầu tư và tổ chức tín dụng.
Thứ hai, khó khăn về cơ sở hạ tầng. Hạ tầng truyền tải điện chưa theo kịp tốc độ phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt tại các khu vực có tiềm năng cao như Ninh Thuận và Bình Thuận (nay là Khánh Hòa và Lâm Đồng), khiến nhiều dự án phải cắt giảm công suất. Bên cạnh đó, khả năng lưu trữ điện còn hạn chế do thiếu đầu tư vào công nghệ lưu trữ năng lượng, gây khó khăn trong việc điều phối cung - cầu điện năng.
Thứ ba, rào cản về tài chính. Các dự án năng lượng tái tạo thường có nhu cầu vốn lớn, thời gian hoàn vốn dài, nhưng lại gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng dài hạn. Các ngân hàng thương mại đánh giá lĩnh vực này có mức độ rủi ro cao do phụ thuộc nhiều vào chính sách và hạ tầng kỹ thuật. Thị trường tài chính thiếu các sản phẩm phù hợp cho đầu tư xanh; thị trường vốn kém thanh khoản đối với cổ phiếu năng lượng tái tạo và sự phụ thuộc lớn vào vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khiến thị trường dễ tổn thương trước các biến động toàn cầu.
Thứ tư, hạn chế về kinh nghiệm và chuyên môn. Nhiều tổ chức tín dụng chưa có đội ngũ chuyên trách hoặc chưa được đào tạo đầy đủ để thẩm định các dự án năng lượng tái tạo. Thực hành cấp tín dụng vẫn còn bảo thủ, chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực quen thuộc như bất động sản, thương mại. Ngoài ra, việc thiếu tích hợp các tiêu chí môi trường, xã hội và quản trị (ESG) trong quy trình xét duyệt tín dụng khiến các dự án năng lượng tái tạo chưa được ưu tiên trong danh mục cấp vốn.
Thứ năm, rào cản về thị trường. Hệ thống tài chính - ngân hàng tại Việt Nam vẫn ưu tiên tài trợ cho năng lượng truyền thống do độ rủi ro thấp và mức độ quen thuộc cao. Thị trường tài trợ xanh thiếu cạnh tranh khi bị chi phối bởi một số ngân hàng lớn. Các nhà phát triển năng lượng tái tạo nhỏ thường có tín nhiệm tài chính thấp, khó đáp ứng điều kiện vay. Bên cạnh đó, số lượng công ty năng lượng tái tạo niêm yết trên thị trường chứng khoán còn ít, hạn chế cơ hội đầu tư và làm giảm sự hiện diện của lĩnh vực này.
Thứ sáu, rào cản bên ngoài. Biến động kinh tế như lạm phát, biến động tỷ giá, lãi suất tăng hoặc đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu đều có thể làm tăng chi phí đầu tư hoặc khiến các dự án gặp rủi ro tài chính. Đặc biệt, các dự án phụ thuộc vào thiết bị nhập khẩu hoặc vốn vay quốc tế dễ bị tổn thương hơn, gây khó khăn cho cả nhà đầu tư và ngân hàng cấp tín dụng.
Kết luận và hàm ý chính sách
Tín dụng xanh là động lực quan trọng thúc đẩy sự phát triển năng lượng tái tạo tại Việt Nam, cung cấp vốn cần thiết để xây dựng và mở rộng cơ sở hạ tầng năng lượng sạch. Thông qua tín dụng xanh, các doanh nghiệp có thể mở rộng đầu tư vào hạ tầng, công nghệ sạch và các mô hình sản xuất bền vững. Mặc dù lĩnh vực này đã ghi nhận bước tiến tích cực, nhưng vẫn còn đối mặt với nhiều thách thức về pháp lý, năng lực tài chính và sự tham gia hạn chế của khu vực tư nhân. Trong bối cảnh đó, NHNN với tư cách là ngân hàng trung ương, có vai trò quan trọng trong định hình sự tham gia của khu vực tài chính vào phát triển năng lượng tái tạo. Bằng cách thực hiện các chính sách có mục tiêu, NHNN có thể giúp giảm rào cản tài chính và khuyến khích các ngân hàng hỗ trợ các dự án năng lượng xanh thông qua một số hàm ý chính sách quan trọng sau:
Hoàn thiện khung pháp lý ngân hàng xanh. NHNN cần xây dựng và ban hành một khuôn khổ pháp lý thống nhất về ngân hàng xanh, bao gồm định nghĩa dự án xanh, tiêu chuẩn cho vay, quy trình đánh giá rủi ro và cơ chế giám sát. Việc áp dụng hạn ngạch cho vay xanh bắt buộc hoặc tiêu chí báo cáo định kỳ sẽ giúp nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các tổ chức tín dụng.
Tạo động lực cho hoạt động cho vay xanh. NHNN có thể áp dụng một số ưu đãi như giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạ trọng số rủi ro, trợ cấp lãi suất hoặc hỗ trợ từ quỹ tài chính xanh nhằm giảm chi phí vốn cho ngân hàng và khách hàng. Đồng thời, khuyến khích ngân hàng đa dạng hóa sản phẩm cho vay gắn với yếu tố xanh.
Tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn dài hạn. NHNN có thể thúc đẩy cho vay dài hạn cho các dự án năng lượng tái tạo bằng cách áp dụng ưu đãi vốn hoặc giảm trọng số rủi ro, giúp giảm gánh nặng tài chính cho ngân hàng. Đồng thời, cần tăng cường hợp tác với các tổ chức tài chính quốc tế như World Bank, ADB, IFC… để mở rộng nguồn vốn ưu đãi. Ngoài ra, việc thành lập Quỹ tài chính xanh quốc gia sẽ hỗ trợ các dự án năng lượng tái tạo thông qua các khoản vay lãi suất thấp, nâng cao tính khả thi tài chính và thu hút thêm đầu tư.
Thiết lập cơ chế giảm thiểu rủi ro. Một trong những rào cản chính đối với tín dụng năng lượng tái tạo là rủi ro cao. Để giảm thiểu rủi ro, NHNN có thể triển khai các cơ chế chia sẻ như chương trình bảo lãnh tín dụng phối hợp với Bộ Tài chính và tổ chức tài chính quốc tế. Ngoài ra, cần thúc đẩy phát triển các sản phẩm bảo hiểm chuyên biệt cho năng lượng tái tạo nhằm bảo vệ trước các rủi ro về tài nguyên, xây dựng và chính sách, qua đó khuyến khích ngân hàng mở rộng cho vay trong lĩnh vực này.
Khuyến khích đổi mới sản phẩm tài chính. NHNN nên khuyến khích các tổ chức tín dụng phát triển sản phẩm tài chính sáng tạo như khoản vay liên kết với chỉ tiêu bền vững (SLL), mô hình “trả tiền khi sử dụng” (PAYG), hoặc các sản phẩm tài trợ kết hợp kỹ thuật - tài chính nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường.
Tận dụng tài chính khí hậu quốc tế. Việc hợp tác với các quỹ như Quỹ Khí hậu Xanh (GCF), Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF) hoặc các ngân hàng phát triển đa phương có thể giúp giảm chi phí vốn, cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư tư nhân vào các dự án quy mô lớn.
Nâng cao năng lực và chia sẻ kiến thức. NHNN có thể tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu về thẩm định dự án năng lượng tái tạo, quản trị rủi ro môi trường - xã hội, đồng thời xây dựng nền tảng chia sẻ kiến thức về tài chính xanh giữa các ngân hàng và bên liên quan.
Thúc đẩy sự hợp tác giữa các ngân hàng và các nhà phát triển năng lượng tái tạo. NHNN có thể thiết lập các nền tảng đối thoại như hội nghị, tọa đàm và cơ chế PPP. Những nền tảng này giúp tăng cường trao đổi thông tin, thu hẹp khoảng cách hiểu biết giữa hai bên. Qua đó, ngân hàng hiểu rõ hơn nhu cầu tài chính của dự án năng lượng tái tạo, còn nhà phát triển nắm bắt được yêu cầu cho vay từ phía ngân hàng.
Hỗ trợ các các doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) trong lĩnh vực năng lượng tái tạo. Để hỗ trợ tiếp cận tài chính, Chính phủ nên triển khai chương trình cho vay xanh ưu đãi và cơ chế bảo lãnh tín dụng cho các khoản vay năng lượng tái tạo. Đồng thời, khuyến khích các ngân hàng thành lập nhóm chuyên trách tài trợ năng lượng tái tạo, kết hợp hỗ trợ kỹ thuật và tài chính nhằm nâng cao năng lực thẩm định và đáp ứng nhu cầu riêng của từng dự án SME.
Nâng cao quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động cấp tín dụng. Quản lý rủi ro môi trường trong hoạt động tín dụng giúp bảo vệ môi trường và tăng tính bền vững cho hệ thống tài chính. NHNN cần hoàn thiện các công cụ đánh giá rủi ro môi trường - xã hội, kết hợp công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), đồng thời nâng cao giám sát và minh bạch hóa hoạt động cấp tín dụng có yếu tố bền vững. Thúc đẩy quan hệ đối tác quốc tế. NHNN nên thúc đẩy hợp tác giữa các ngân hàng Việt Nam và các tổ chức tài chính quốc tế như các ngân hàng phát triển đa phương (MDB) nhằm tận dụng nguồn vốn, chuyên môn và hỗ trợ kỹ thuật cho các dự án năng lượng tái tạo. Quan hệ đối tác này có thể bao gồm đồng tài trợ, chia sẻ kiến thức và cung cấp tài chính ưu đãi, giúp giảm chi phí vốn và rủi ro cho các nhà phát triển NLTT trong nước.
Tài liệu tham khảo:
1. Avtar, R., Tripathi, S., Aggarwal, A. K., & Kumar, P (2019). Population- urbanization-energy nexus: a review. Resources, 8(3), 136.
2. Cantarero, M. M. V (2020). Of renewable energy, energy democracy, and sustainable development: A roadmap to accelerate the energy transition in developing countries. Energy Research & Social Science, 70, 101716.
3. IEA (2024). Vietnam Energy Outlook 2024. International Energy Agency.
4. IFC (2020). Green Banking: Supporting Renewable Energy Projects. International Finance Corporation.I
5. RENA (2021). World Energy Transitions Outlook: 1.5°C Pathway. International Renewable Energy Agency.
6. Nguyen, P. A., Abbott, M., & Nguyen, T. L. T (2019). The development and cost of renewable energy resources in Vietnam. Utilities Policy, 57, 59-66.
7. Nguyen, X. P., Le, N. D., Pham, V. V., Huynh, T. T., Dong, V. H., & Hoang, A. T (2021). Mission,challenges,andprospectsofrenewableenergydevelopmentinVietnam. Energy Sources, Part A: Recovery, Utilization, and Environmental Effects, 1-13.
8. OECD (2021). Scaling up Green Finance: Mobilizing Investment for Renewable Energy. Organisation for Economic Co-operation and Development.
9. Raikar, S., & Adamson, S (2024). Renewable energy finance: Theory and practice. Elsevier.
10. World Bank (2023c). Vietnam: Mobilizing finance for renewable energy development. World Bank Group.
| Ngày nhận bài: 17/6/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 28/7/2025; Ngày duyệt đăng: 30/7/2025 |
Tin tức khác
ACCA giới thiệu bộ thuật ngữ chuẩn mực bền vững theo IFRS
TP. Hồ Chí Minh: Xử phạt hành chính 36 doanh nghiệp chậm đóng bảo hiểm xã hội
MB triển khai thẻ MB Visa Hi BIZ cho doanh nghiệp trong nước
Chính sách tài khóa tạo động lực tăng trưởng cho nền kinh tế
Vietcombank giữ vững vị thế Ngân hàng có môi trường làm việc tốt nhất Việt Nam
TP. Hồ Chí Minh: Gần 20.000 doanh nghiệp chậm đóng bảo hiểm xã hội
VPBank thanh lý tài sản đảm bảo, giá thấp hơn thị trường 10-20%
TALKSHOW: Luật Quản lý thuế sửa đổi, hướng tới hệ thống thuế minh bạch và hiện đại
Bài 3: EMAGAZINE: Hoàn thiện Luật Thống kê - Bước đột phá cho hệ thống dữ liệu quốc gia
VIDEO: Chuyển nhượng vàng miếng sẽ chịu thuế 0,1% trên giá trị từng lần giao dịch
VIDEO: Thuế "4.0": Etax mobile tích hợp chatbot AI biến điện thoại thành trợ lý thuế 24/7
VIDEO: 8 loại dữ liệu "bắt tay nhau" giúp tăng tốc xử lý thủ tục hành chính
Chuẩn bị chu đáo khởi công, khánh thành 234 dự án với tổng vốn 3,4 triệu tỷ đồng
Chuyển đổi mô hình để xuất khẩu tăng trưởng đột phá
Tập trung tháo gỡ khó khăn cho hoạt động logistics và xuất nhập khẩu
Tổng Bí thư Tô Lâm tiếp xúc cử tri thành phố Hà Nội sau Kỳ họp thứ 10
Chính phủ lấy doanh nghiệp làm động lực quan trọng của nền kinh tế
Cần có các giải pháp đột phá duy trì đà tăng trưởng xuất khẩu cao và bền vững
Hà Nội siết chặt kỷ luật đấu thầu, đẩy nhanh tiến độ dự án và giải ngân vốn đầu tư công
Chuẩn quốc tế được “nội địa hóa” để nâng cao tính minh bạch của tài chính công
“Mở đường” cho tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026 - 2030
Đo “sức khỏe thể chế” qua môi trường kinh doanh của hợp tác xã
Lâm Đồng: Chấp thuận chủ trương đầu tư dự án Cảng hàng không Phan Thiết
Khánh thành Trạm biến áp 110kV sân bay Long Thành và đường dây đấu nối
Đẩy mạnh chế biến sâu, Đồng Nai nâng tầm giá trị nông sản
Chuyển đổi mô hình để xuất khẩu tăng trưởng đột phá
TP. Hồ Chí Minh ưu tiên phát triển ngành công nghiệp lương thực, thực phẩm

















