Chính sách tài khóa tạo động lực tăng trưởng cho nền kinh tế
Phạm Thị Phương Hoa
ThS., Viện Chiến lược và Chính sách Kinh tế - Tài chính;
Email: phamthiphuonghoa@mof.gov.vn
| FISCAL POLICY AS A CATALYST FOR ECONOMIC GROWTH Summary During the 2021-2025 period, Viet Nam's economy has confronted a multitude of challenges and pressures stemming from the COVID-19 pandemic, tariff tensions, exchange rate volatility, and global geopolitical uncertainties. In this context, fiscal policy has been identified as a pivotal instrument, implemented with flexibility, proactiveness, and at a sufficiently large scale so as to take the lead in sustaining development momentum, fostering economic growth, and maintaining stability in both citizens' livelihoods and business activities. Keywords: Fiscal policy, drivers, growth, economy, finance |
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA - TRỢ LỰC CHO TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Kinh tế Việt Nam đạt nhiều điểm sáng tích cực trong tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức khá cao so với khu vực và thế giới, quy mô GDP từ 346 tỷ USD năm 2020 (xếp thứ 37 trên thế giới) tăng lên 476 tỷ USD năm 2024, dự kiến khoảng 510 tỷ USD năm 2025, xếp thứ 32 thế giới và thứ 4 trong khu vực ASEAN. Quy mô thương mại không ngừng tăng lên, xếp thứ 20 thế giới.
Trong 9 tháng đầu năm 2025, tăng trưởng GDP đạt mức 7,85%, mức cao nhất cùng kỳ giai đoạn 2011-2025, đưa Việt Nam vào nhóm tăng trưởng cao nhất trên thế giới và khu vực (IMF(9/2025), ADB (9/2025) dự báo), dự kiến năm 2025 tăng trưởng đạt 8%. Các cân đối vĩ mô được ổn định, lạm phát được kiểm soát dưới mức mục tiêu, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng mạnh cả về vốn đăng ký và giải ngân; nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài được kiểm soát tốt; chính sách tài khóa trở thành "trụ cột" dẫn dắt tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh dư địa chính sách tiền tệ bị thu hẹp do chênh lệch lãi suất kéo dài và áp lực về tỷ giá.
Về thu ngân sách nhà nước
Chính sách giảm, gia hạn thuế (thuế giá trị gia tăng - GTGT, thu nhập cá nhân - TNCN, thu nhập doanh nghiệp - TNDN, bảo vệ môi trường - BVMT), phí, lệ phí và tiền thuê đất hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và người dân là một trong những công cụ quan trọng trợ lực cho nền kinh tế, kích thích tổng cầu, tăng đầu tư. Thông qua việc cải cách thủ tục hành chính, mở rộng ưu đãi thuế hợp lý, Nhà nước tạo môi trường thuận lợi để khu vực tư nhân đầu tư, đổi mới sáng tạo và đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế bền vững theo tinh thần Nghị quyết số 68/NQ-TVV ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Bình quân giai đoạn 2020-2024, tổng số tiền đã thực hiện miễn giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí, tiền thuê đất hỗ trợ cho doanh nghiệp, người dân bình quân khoảng gần 200 nghìn tỷ mỗi năm, chiếm khoảng 10% tổng thu ngân sách nhà nước (NSNN). Năm 2025, tiếp tục triển khai các chính sách giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất đã ban hành để hỗ trợ doanh nghiệp và người dân, như: giảm thuế suất thuế GTGT từ 10% xuống 8% đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất 10%; giảm mức thuế BVMT đối với xăng, dầu, mỡ nhờn; ưu đãi lệ phí trước bạ đối với ô tô điện chạy pin; gia hạn thời hạn nộp thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) đối với ô tô sản xuất hoặc lắp ráp trong nước; gia hạn thời hạn nộp thuế GTGT, thuế TNDN, thuế TNCN và tiền thuê đất...
Lũy kế từ 2020 đến hết tháng 8/2025, chính sách miễn, giảm, giãn thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân đạt 1,1 triệu tỷ đồng. Thực tế cho thấy, chính sách gia hạn thời gian nộp thuế, phí và tiền thuê đất cũng đang phát huy tác dụng như một dạng "khoản vay không lãi suất", giúp doanh nghiệp có thêm dòng tiền để đầu tư máy móc tự động hóa, tăng năng suất và giảm chi phí lao động. Trong bối cảnh lãi suất thương mại vẫn ở mức cao với nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa, chính sách gia hạn nộp thuế không chỉ giúp cải thiện thanh khoản mà còn đóng vai trò như nguồn tín dụng ổn định từ phía Nhà nước.
Việc thực hiện các giải pháp này vừa hướng tới việc giải quyết cả các mục tiêu ngắn hạn như hỗ trợ người dân, doanh nghiệp khôi phục sản xuất, kinh doanh trong bối cảnh tình hình kinh tế vĩ mô trong nước và quốc tế tiếp tục có nhiều biến động, vừa hướng đến các mục tiêu lâu dài như tập trung nguồn lực vốn đầu tư công để nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng quan trọng, thiết yếu của nền kinh tế để mở rộng dư địa phát triển của đất nước.
Bên cạnh đó, công tác quản lý thuế, cải cách thủ tục hành chính thuế, hải quan cũng được đẩy mạnh, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, người dân, đảm bảo môi trường kinh doanh minh bạch, lành mạnh. Ngày 1/8/2025, Cục Thuế đã chính thức công bố cổng thông tin thuế hỗ trợ doanh nhân và ban hành bộ 3 cuốn sổ tay thuế điện tử dành cho chủ doanh nghiệp, kế toán trưởng và hộ, cá nhân kinh doanh hỗ trợ người nộp thuế thuận tiện trong thủ tục hành chính thuế. Đồng thời, ngày 27/6/2025, Cục Hải quan đã ra mắt ứng dụng 'Vietnam Customs Data" nhằm thay thế hình thức báo cáo giấy truyền thống bằng nền tảng số cung cấp dữ liệu xuất nhập khẩu theo thời gian thực; mở rộng cung cấp dịch vụ công trực tuyến tạo thuận lợi trong hoạt động xuất, nhập khẩu hàng hóa.
Công tác triển khai hóa đơn điện tử được đẩy mạnh. Tính lũy kế từ khi triển khai (11/2021) đến tháng 9/2025, cơ quan thuế đã tiếp nhận, xử lý hơn 17,5 tỷ hóa đơn điện tử, trong đó: 3,65 tỷ hóa đơn có mã; 10,32 tỷ hóa đơn không mã; gần 3,58 tỷ hóa đơn khởi tạo từ máy tính tiền. Đồng thời, thực hiện bao quát quản lý thuế hoạt động thương mại điện tử, kinh doanh trên nền tảng số, mua bán online. Đến tháng 9/2025, đã có 176 nhà cung cấp nước ngoài thực hiện đăng ký, kê khai và nộp thuế qua cổng thông tin điện tử dành cho Nhà cung cấp nước ngoài; 471 sàn thương mại điện tử cung cấp thông tin qua cổng tiếp nhận thông tin thương mại điện tử (TMĐT) và gần 163 nghìn hộ, cá nhân kinh doanh khai, nộp thuế trên Cổng thông tin điện tử dành cho hộ, cá nhân kinh doanh. Lũy kế 9 tháng, thu NSNN từ TMĐT ước đạt 152.000 tỷ đồng, tăng 64% so với cùng kỳ năm 2024.
Tuy chính sách tài khóa thời gian qua thực hiện nhiều các biện pháp giãn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất song thu NSNN vẫn đạt kết quả khả quan, thu NSNN hàng năm đều vượt dự toán, phản ánh sự hồi phục của nền kinh tế và hiệu quả của công tác quản lý thu. Năm 2025, dự kiến thu NSNN ước đạt 2.388,8 nghìn tỷ đồng, tăng 421,9 nghìn tỷ đồng so với dự toán, để có thêm nguồn thực hiện các nhiệm vụ theo dự toán và nhiệm vụ cấp bách phát sinh, nguồn lực cho đầu tư phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Giai đoạn 2021-2025, ước tổng thu NSNN đạt 9,6 triệu tỷ đồng, vượt mục tiêu đề ra (8,3 triệu tỷ đồng), gấp 1,39 lần so với thực hiện giai đoạn 2016-2020. Tỷ lệ huy động vào NSNN khoảng 18,3% GDP (cao hơn mức mục tiêu 16% GDP). Cơ cấu thu ngân sách được cải thiện, ngày càng bền vững hơn. Các khoản thu nội địa chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng thu NSNN, bình quân 5 năm giai đoạn 2021-2025, khoảng 85%, cao hơn các giai đoạn trước đó (giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ này là 82%) cho thấy sự phát triển nội tại của nền kinh tế.
Về chi ngân sách nhà nước
Song hành cùng các chính sách thuế hỗ trợ sản xuất, hoạt động kinh doanh, các chính sách chi NSNN tiếp tục được điều chỉnh ưu tiên nguồn lực thúc đẩy đầu tư các công trình trọng điểm, đầu tư vào khoa học công nghệ (KHCN), đổi mới sáng tạo (ĐMST), chuyển đổi số (CĐS)... hướng đến việc triển khai 7 nghị quyết trụ cột để phát triển đất nước trong thời gian tới. Trong đó, bố trí đủ 3% ngân sách cho khoa học, công nghệ nhằm thực hiện chính sách đột phá phát triển KHCN, ĐMST, CĐS... đảm bảo nguồn lực thực hiện để chi trả kịp thời chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động khi thực hiện sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy; thực hiện chính sách miễn học phí, thực hiện các nhiệm vụ phát sinh do sắp xếp tổ chức bộ máy.
![]() |
Tổng chi NSNN 5 năm giai đoạn 2021-2025 ước đạt khoảng 10,9 triệu tỷ đồng, đạt mục tiêu kế hoạch theo Nghị quyết số 23/2021/QH15 (khoảng 10,26 triệu tỷ đồng), chiếm tỷ trọng khoảng 20% GDP; đảm bảo nguồn lực thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của đất nước, đảm bảo quốc phòng, an ninh, an sinh xã hội. Tỷ trọng bố trí dự toán chi đầu tư phát triển (ĐTPT) đã tăng từ mức 28,3% năm 2021 lên mức 31% năm 2025; tổng nguồn NSNN bố trí cho ĐTPT trong 5 năm đạt khoảng 3,4 triệu tỷ đồng (vượt mục tiêu là 2,87 triệu tỷ đồng). Trong điều hành, nhờ bổ sung từ nguồn dự phòng và tăng thu ngân sách hàng năm nên tỷ trọng bố trí cho chi ĐTPT thực hiện đạt khoảng 32-33% tổng chi NSNN bình quân giai đoạn 2021-2025.
Đồng thời, công tác giải ngân vốn đầu tư công được Chính phủ và các tổ công tác thúc đẩy giải ngân của Thủ tướng Chính phủ quan tâm, theo dõi sát sao, nhằm kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực hiện dự án đầu tư, tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công. Tỷ lệ giải ngân đầu tư công được cải thiện, bình quân giai đoạn 2021-2024 đạt 92,9% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao.
Ước 10 tháng năm 2025, ước giải ngân vốn đầu tư công đạt khoảng 486 nghìn tỷ đồng, đạt 54,6% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao (cùng kỳ năm 2024 đạt 50,9% kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, về số tuyệt đối cao hơn khoảng 346,1 nghìn tỷ đồng).
Vốn đầu tư công được bố trí tập trung hơn, tiếp tục khắc phục tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán, lãng phí. vốn ngân sách trung ương được dồn lực vào các dự án quan trọng quốc gia, dự án đường cao tốc, dự án liên vùng, trọng điểm. Dự kiến đến hết năm 2025, hoàn thành 3.245 km đường bộ cao tốc (vượt mục tiêu là 3.000 km) và 1.711 km đường ven biển (vượt mục tiêu là 1.700 km); cơ bản hoàn thành Cảng hàng không Quốc tế Long Thành giai đoạn 1; đưa vào hoạt động các tuyến vành đai, đường sắt đô thị, cảng biển, cảng hàng không... tạo nền tảng cơ sở, không gian kết nối phát triển liên vùng và quốc tế.
Về cân đối NSNN và nợ công
Cân đối NSNN được duy trì theo các mục tiêu đề ra, Việt Nam đã chủ động điều hành bội chi NSNN theo hướng linh hoạt, chấp nhận bội chi cao ở một số thời điểm (năm 2022, 2023, Quốc hội cho phép tăng bội chi NSNN bình quân 1-1,2%/năm để bổ sung nguồn lực cho chương trình phục hồi và phát triển nền kinh tế sau dịch COVID-19) để có thêm nguồn lực cho đầu tư phát triển và hỗ trợ tổng cầu khi nền kinh tế phát triển không thuận lợi. Đồng thời, Việt Nam đã chủ động thực hiện một số biện pháp để giảm mức bội chi tăng cao như ưu tiên sử dụng một số khoản tăng thu, tiết kiệm chi để giảm bội chi NSNN....
Hàng năm, Bộ Tài chính thực hiện rà soát, đánh giá tình hình nợ công, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành các Quyết định về kế hoạch vay, trả nợ hàng năm đảm bảo tái cơ cấu nợ bền vững, giảm thiểu các rủi ro về kỳ hạn, thanh khoản, đảm bảo trả nợ đúng hạn, ổn định nền tài chính công.
Bội chi ngân sách giai đoạn 2021 - 2025 được kiểm soát ở mức 3,1% - 3,2% GDP, thấp hơn mức bình quân 3,45% của giai đoạn 2016 - 2020 và nằm trong giới hạn Quốc hội cho phép. Bên cạnh đó, tỷ lệ nợ công tiếp tục xu hướng giảm, từ 42,7% GDP năm 2021 xuống khoảng 34% năm 2024 và dự kiến duy trì ở mức 35% - 36% GDP vào cuối năm 2025, cho thấy nỗ lực lớn của Chính phủ trong quản lý tài khóa và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia. Mức dư nợ công khoảng 35-36% GDP như hiện nay, có dư địa đáng kể tăng nguồn lực cho đầu tư phát triển trong giai đoạn tới, đặc biệt nhằm thu hẹp khoảng cách thiếu hụt về hạ tầng trong các lĩnh vực năng lượng, logistics và giao thông vận tải.
Nhờ những kết quả tích cực này, Năm 2025, s&p và Fitch tiếp tục giữ hạng tín nhiệm của Việt Nam mức BB ; Moody's đánh giá ở mức Ba2, triển vọng ổn định. Điều này tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực và là cơ hội cho Chính phủ đa dạng hóa kênh huy động vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ phát triển KT-XH.
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA CHO MỤC TIÊU TĂNG TRƯỞNG TRONG KỶ NGUYÊN MỚI
Việt Nam đang nỗ lực cao nhất để thực hiện các mục tiêu, chỉ tiêu phát triển KT - XH giai đoạn 2021 - 2025, hướng đến tăng trưởng hai con số trong giai đoạn 2026 - 2030 và trở thành nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Đây không chỉ là thách thức mà còn là khát vọng vươn lên mạnh mẽ của đất nước trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Để thực hiện mục tiêu này, Việt Nam không thể tiếp tục dựa vào những động lực truyền thống như tài nguyên, lao động giá rẻ hay vốn đầu tư mở rộng vốn đã giảm hiệu quả. Đất nước cần kiến tạo những động lực phát triển hiện đại và bền vững, gắn với chuyển đổi số, kinh tế xanh, đồng thời tận dụng tối đa cơ hội từ hội nhập quốc tế.
Để thực hiện các mục tiêu chiến lược đến năm 2045 trong bối cảnh diễn biến tình hình kinh tế, chính trị, thương mại thế giới dự báo còn nhiều biến động phức tạp, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 273/ NQ-CP ngày 9/9/2025 phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 8/2025 nhằm thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và phát triển bền vững năm 2025 - 2030 tiếp tục định hướng chính sách tài khóa mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm cùng với các chính sách khác góp phần thúc đẩy tăng trưởng, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và các cân đối lớn của nền kinh tế.
Chính sách tài khóa giai đoạn tới cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất, hoàn thiện chính sách thu ngân sách theo hướng mở rộng cơ sở thu, nuôi dưỡng nguồn thu bền vững, cần tiếp tục cải cách hệ thống chính sách thuế theo hướng hiện đại, công bằng và trung lập, phù hợp thông lệ quốc tế. Trọng tâm là mở rộng cơ sở thuế và bảo đảm cơ cấu nguồn thu bền vững. Hoàn thiện quy định về chính sách thuế đối với các mô hình kinh tế mới, kinh doanh dựa trên công nghệ và nền tảng số, đặc biệt là tài sản mã hóa, tiền mã hóa, thương mại điện tử và các nguồn thu phát sinh từ giao dịch xuyên biên giới.
Mở rộng diện thu thuế trong các sắc thuế hiện hành, giảm tối đa các trường hợp miễn, giảm thuế không cần thiết, hạn chế việc lồng ghép mục tiêu xã hội trong chính sách thuế. Điều này giúp hệ thống thuế đơn giản, minh bạch hơn và tăng tính trung lập, tạo sân chơi bình đẳng giữa các doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, hiện đại hóa quản lý thu. Tăng cường hợp tác quốc tế trong quản lý thuế, đặc biệt, phối hợp trong xây dựng cơ chế quản lý thuế khi áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu, hoạt động giao dịch xuyên biên giới. Tập trung thực hiện các giải pháp tăng cường quản lý thu NSNN, nắm chắc nguồn thu, tăng thu qua môi trường điện tử, bảo đảm thu đúng, thu đủ, thu kịp thời. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ trong quản lý thu như trí tuệ nhân tạo, máy học, xây dựng cơ sở dữ liệu lớn, hướng tới CĐS toàn diện trong quản lý thuế, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế số và hội nhập quốc tế.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện cơ cấu chi ngân sách theo hướng tập trung, trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, manh mún, gắn chi tiêu với kết quả, hiệu quả thực hiện thực hiện mục tiêu KT-XH.
Ưu tiên chi NSNN cho phát triển KHCN, ĐMST và CĐS theo hướng đến 2030, kinh phí chi cho nghiên cứu, phát triển đạt 2% GDP, trong đó kinh phí từ đầu tư xã hội chiếm hơn 60%; bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển KHCN, ĐMST, CĐS quốc gia và tăng dần theo yêu cầu phát triển để đạt các mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 57-NQ/ TW; tập trung huy động và ưu tiên nguồn lực quốc gia để tổ chức triển khai thành công một số dự án công nghệ quy mô lớn, có tính đột phá, sản phẩm cụ thể, mang lại tác động mạnh mẽ tới phát triển KT-XH và giải quyết các bài toán lớn, mang tính chiến lược của đất nước như AI quốc gia, công nghệ gen chữa bệnh, công nghệ năng lượng nguyên tử, công nghệ đường sắt cao tốc Bắc - Nam, công nghệ chế tạo thiết bị không người lái và robot phục vụ an ninh - quốc phòng...
Đồng thời, tập trung nguồn lực tài chính cho tăng trưởng xanh, phát triển kinh tế tuần hoàn. Rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật tạo thuận lợi khơi thông nguồn vốn; tận dụng nguồn vốn hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế cho bảo vệ môi trường và biến đổi khí hậu.
Thứ ba, nâng cao hiệu quả đầu tư công, đóng vai trò dẫn dắt và kích hoạt đầu tư xã hội. Bố trí nguồn lực của NSNN cả trung ương và địa phương thực hiện đầu tư xây dựng, hoàn thiện các cơ sở hạ tầng, công trình trọng điểm quốc gia (đầu tư đường sắt tốc độ cao trên trục Bắc - Nam, các tuyến đường sắt kết nối Việt Nam - Trung Quốc, các hạ tầng giao thông đường bộ, hàng không,...). Đẩy nhanh công tác chuẩn bị thực hiện dự án, lựa chọn nhà thầu theo đúng quy định của pháp luật. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát; kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong giải ngân đầu tư công, đặc biệt là các vướng mắc về đất đai và giải phóng mặt bằng. Đảm bảo nguồn cung ứng nguyên vật liệu cho các dự án đầu tư công. Tiếp tục rà soát, sửa đổi các văn bản quy định đầu tư công để khơi thông, đảm bảo căn cứ về nguồn vốn thực hiện các dự án đặc biệt, nhất là các dự án KHCN, ĐMST đòi hỏi phải có cơ chế phê duyệt và triển khai nhanh chóng.
Thứ tư, rà soát, hoàn thiện các quy định về quản lý nợ công đảm bảo đồng bộ với các pháp luật liên quan (NSNN, đầu tư công), cởi bỏ điểm nghẽn trong sử dụng nguồn vốn vay cho mục tiêu phát triển kinh tế. Đa dạng hóa nguồn vốn và phương thức vay trong nước và nước ngoài, giảm áp lực huy động vốn vay, góp phần giảm gánh nặng nợ. Chủ động bám sát diễn biến thị trường cũng như tiến độ sử dụng vốn để huy động vốn với chi phí và quy mô hợp lý, hạn chế rủi ro tăng các chi phí lãi, phí cho NSNN. Tăng cường công khai, minh bạch trong quản lý nợ công, nâng cao năng lực kiểm soát rủi ro nợ.B
Tài liệu tham khảo:
- Bộ Tài chính (2025). Báo cáo tình hình kinh tế xã hội các tháng năm 2025.
- Bộ Tài chính (2025). Báo cáo đánh giá thực hiện NSNN các năm 2021, 2022, 2023, 2024.
- Chính phủ (9/2025). Báo cáo số 776/BC-CP ngày 16/9/2025 đánh giá tình hình thực hiện NSNN năm 2025.
| Ngày nhận bài: 25/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 22/10/2025; Ngày duyệt đăng: 27/10/2025. |
Tin tức khác
TP. Hồ Chí Minh: Xử phạt hành chính 36 doanh nghiệp chậm đóng bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm - Ngân hàng
MB triển khai thẻ MB Visa Hi BIZ cho doanh nghiệp trong nước
Bảo hiểm - Ngân hàng
Vietcombank giữ vững vị thế Ngân hàng có môi trường làm việc tốt nhất Việt Nam
Bảo hiểm - Ngân hàng
TP. Hồ Chí Minh: Gần 20.000 doanh nghiệp chậm đóng bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm - Ngân hàng
VPBank thanh lý tài sản đảm bảo, giá thấp hơn thị trường 10-20%
Bảo hiểm - Ngân hàng
Hạ tầng VietQR được mở rộng cho thanh toán nội địa và xuyên biên giới
Bảo hiểm - Ngân hàng
Thu thuế chuyển nhượng vàng miếng: Một trong nhiều giải pháp bình ổn thị trường vàng
Tài chính
MultiMedia
INFOGRAPHIC: 6 nhóm hàng xuất khẩu "chục tỷ đô" của doanh nghiệp FDI
VIDEO: Bộ Tài chính đề xuất nâng mức doanh thu miễn thuế lên 500 triệu đồng/năm
INFOGRAPHIC: Chương trình 1719 tại tỉnh Lào Cai: 5 năm bứt phá, chuyển biến toàn diện
INFOGRAPHIC: Chương trình Mục tiêu quốc gia 1719 giai đoạn II (2026–2030): Trao quyền cho địa phương, tạo bứt phá từ vùng lõi nghèo
VIDEO: Bộ Tài chính đề xuất thu thuế trên thu nhập, chính thức xóa bỏ thuế khoán
Thúc đẩy hợp tác kinh tế - đầu tư Việt – Lào lên tầm cao mới
Tài chính
TP. Hồ Chí Minh: Đóng góp thêm 20 tỷ đồng hỗ trợ đồng bào bị bão, lũ
Thời sự
TP. Hồ Chí Minh: Chuyển đổi kép để xây dựng đô thị thông minh
Thời sự
Đề xuất đầu tư cao tốc Vinh - Thanh Thủy hơn 25.300 tỷ đồng
Thời sự
Quản lý tài chính - ngân sách hiệu quả, hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế
Thời sự
Bỏ độc quyền cho vay lại, rút gọn thủ tục ODA trong dự thảo Luật Quản lý nợ công sửa đổi
Hoạt động của Lãnh đạo Bộ Tài chính
Quyết liệt các giải pháp để đạt tăng trưởng trên 8%
Tài chính
Cần khoảng một tháng để khắc phục sự cố điện ở Phú Quốc
Thời sự
Thúc đẩy hợp tác kinh tế - đầu tư Việt – Lào lên tầm cao mới
Tài chính
Đề xuất cơ chế đột phá giúp TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng bứt phá sau mở rộng địa giới
Tài chính
Kinh tế - xã hội TP. Hà Nội tháng 11 tiếp tục chuyển biến tích cực
Tài chính
Bộ Tài chính tổ chức khóa đào tạo Bảo mật Đám mây cho tổ chức
Chuyển đổi số
Bộ Tài chính lấy ý kiến cho Dự thảo thông tư về giám sát thị trường chứng khoán
Tài chính
Sở Tài chính Cà Mau đề xuất giao 60 cơ sở nhà, đất dôi dư để bán đấu giá, đầu tư
Tài chính
Hoàn thiện Nghị định xử phạt lĩnh vực giá: Làm rõ thẩm quyền, tránh chồng chéo
Pháp luật











