![]() |
Biến đổi khí hậu tại Việt Nam không chỉ là vấn đề môi trường mà còn đặt ra những vẫn đề về chăm sóc trẻ em. Việt Nam được xếp thứ 13 trên thế giới về mức độ ảnh hưởng của BĐKH trong hai thập kỷ qua và xếp thứ 37 toàn cầu về Chỉ số rủi ro khí hậu trẻ em (CCRI) của UNICEF, với hai nguy cơ cao nhất là lũ lụt và ô nhiễm không khí.
Trẻ em là nhóm dễ bị tổn thương đặc thù do sự phụ thuộc vào người lớn, hạn chế về tiếng nói, và nhạy cảm sinh lý. BĐKH có thể tác động trực tiếp và gián tiếp đối với trẻ em.
Tác động trực tiếp: Nhiệt độ tăng làm gia tăng nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm như sốt xuất huyết, tiêu chảy, tay chân miệng. Ước tính, nhiệt độ cứ tăng 1°C, tỷ lệ nhập viện ở trẻ em tăng từ 3,4-4,5%. Ô nhiễm không khí đóng góp gần 1/10 số ca tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi. Thiên tai, như lũ lụt và bão (điển hình là Bão Yagi năm 2024), gây hư hại trường học, làm gián đoạn học tập của gần 250 triệu trẻ em trên toàn cầu trong năm 2024. Đáng nói là có tới 2,65 triệu trẻ em (sống tại 11 tỉnh bị ảnh hưởng nặng nề nhất do Bão Yagi) đã phải đối mặt với nguy cơ suy dinh dưỡng gia tăng, cùng với hơn 100.000 trẻ em đối mặt với khủng hoảng tâm lý và nguy cơ bị bỏ mặc, bạo lực.
Tác động gián tiếp: BĐKH làm suy giảm sinh kế gia đình, dẫn đến giảm khả năng tiếp cận dịch vụ thiết yếu của trẻ em, gia tăng nguy cơ bóc lột và bỏ học. Đồng thời, thiên tai làm giảm nguồn thu ngân sách địa phương, hạn chế khả năng đầu tư vào y tế, giáo dục và bảo vệ trẻ em.
Mặc dù Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu trong chăm sóc trẻ em, với nhiều chỉ tiêu tương đương các quốc gia thu nhập trung bình cao (như tiêm chủng, phổ cập giáo dục), nhưng vẫn còn tồn tại những thách thức lớn về bất bình đẳng. Khoảng cách phát triển ngày càng mở rộng giữa các nhóm dân tộc: năm 2020, tỷ lệ trẻ em dân tộc thiểu số bị thấp còi (31,4%) cao gấp 2 lần nhóm trẻ em người Kinh (15%); tỷ lệ thiếu cân ở nhóm dân tộc thiểu số cũng cao gấp hơn 2,5 lần (21% so với 8,5%). Vẫn tồn tại chênh lệch về tỷ lệ học sinh đi học cấp THCS giữa thành thị - nông thôn và giữa các vùng kinh tế - xã hội, với Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên có tỷ lệ thấp nhất cả nước giai đoạn 2016-2022. Hệ thống dịch vụ cơ bản cần được tăng cường, khi khoảng 14,5% trẻ em (tương đương 3,6 triệu trẻ em) chưa tiếp cận được ít nhất 2 trong số các dịch vụ thiết yếu (giáo dục, y tế, dinh dưỡng, nước sạch, vệ sinh, bảo trợ xã hội).
Nhìn lại các số liệu về chi tiêu công cho trẻ em tại Việt Nam, mặc dù không có thống kê chi tiết nhưng cũng đã cho thấy sự ưu tiên đáng kể.
Việt Nam có mức chi tiêu công cho giáo dục ở mức cao trong khu vực và tương đương mức trung bình của OECD. Tổng chi cho giáo dục đạt 4,1% GDP năm 2019 (cao hơn Úc, Nhật Bản, Hàn Quốc). Tương tự, chi ngân sách cho bảo trợ xã hội (bao gồm y tế) đạt 7,55% GDP năm 2018, cao hơn mức trung bình khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (7%) và xếp vào nhóm 5 quốc gia chi cho Y tế cao nhất khu vực.
Dù tổng chi lớn, tuy nhiên, khi đánh giá dựa trên khung tiêu chí của UNICEF, cho thấy một số hạn chế về cơ cấu và phương thức phân bổ nguồn lực. Theo đó, trong tổng chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo, chi thường xuyên chiếm tỷ trọng áp đảo (83,4%), trong khi chi đầu tư chỉ chiếm 17,6% (giai đoạn 2013-2024), chưa đáp ứng yêu cầu cải tạo, nâng cấp và đầu tư mới. Sự chênh lệch này làm chậm quá trình kiên cố hóa trường lớp và hiện đại hóa cơ sở vật chất.
Hiện nay, Việt Nam không có phân loại, thống kê, báo cáo chi tiết về chi ngân sách riêng cho trẻ em nói chung, gây khó khăn cho việc đánh giá hiệu quả chi tiêu. Còn thiếu hệ thống chỉ số định lượng, đánh giá lợi ích của đầu tư công cho trẻ em, đặc biệt là các dự án liên quan đến thích ứng và giảm nhẹ tác động của BĐKH.
Tỷ lệ trẻ em nhận trợ cấp tiền mặt còn rất thấp, chỉ tăng nhẹ từ 1% (2015) lên 1,4% (2023). Con số này thấp hơn đáng kể so với mức trung bình của khu vực Châu Á - Thái Bình Dương (22,43% năm 2023). Khoản vốn đầu tư công trực tiếp liên quan đến trẻ em trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ chiếm 4,6% tổng chi cho đầu tư công nguồn ngân sách Trung ương. Lĩnh vực Y tế, Dân số và Gia đình thậm chí chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ 2%.
Giai đoạn 2021-2025, các Chương trình MTQG (Xây dựng Nông thôn mới, Giảm nghèo bền vững, và Phát triển Kinh tế - Xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng núi) đã gián tiếp và trực tiếp hướng đến trẻ em,. Đặc biệt, CTMTQG phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng núi đã dành 28,2% tổng vốn chương trình cho các dự án trực tiếp nâng cao chất lượng giáo dục và y tế cho trẻ em.
Hướng tới giai đoạn 2026-2035, Chính phủ đã đề xuất hai Chương trình Mục tiêu Quốc gia mới mang tính đột phá, thể hiện cam kết mạnh mẽ trong đầu tư xã hội.
Chương trình Mục tiêu Quốc gia |
Tổng vốn 2026-2030 (tỷ đồng) |
Mục tiêu Trẻ em/Xã hội |
Chăm sóc sức khỏe, dân số và phát triển |
110.288 |
Tầm soát 70% phụ nữ mang thai (2030) và 90% trẻ sơ sinh (2030) đối với các bệnh bẩm sinh phổ biến; 70% người yếu thế tiếp cận dịch vụ chăm sóc xã hội (2030). |
Hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo |
Khoảng 320.000 |
Phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 3-5 tuổi; hoàn thành giáo dục bắt buộc hết THCS; 100% phòng học kiên cố. |
Ngoài ra, Chính phủ đã quyết định tích hợp 03 chương trình mục tiêu quốc gia hiện hành thành một chương trình duy nhất cho giai đoạn 2026-2035, nhằm đạt mục tiêu xây dựng nông thôn mới hiện đại gắn với đô thị hóa và thích ứng BĐKH, đồng thời giảm nghèo đa chiều, bền vững, nâng cao chất lượng sống và khả năng tiếp cận dịch vụ cơ bản cho người dân.
![]() |
Để hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững và bảo vệ trẻ em trước tác động của BĐKH, Quỹ Nhi đồng Liên hợp Quốc (UNICEF) tại Việt Nam đã đưa ra những khuyến nghị với trong quá trình xây dựng và thực thi Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giải đoạn 2026-2030; trong đó chú trọng đến cả các giải pháp tài chính mang tính hệ thống.
Theo đó, Chính phủ cần xây dựng dự toán ngân sách, đảm bảo tổng số ngân sách nhà nước bổ sung thêm cho giáo dục, y tế, bảo hiểm y tế và an sinh xã hội cho trẻ em đạt trên 110.000 tỷ mỗi năm, tương đương 0,9% GDP của Việt Nam năm 2025. Nguyên tắc phân bổ nguồn lực phải hướng tới trẻ em xuyên suốt vòng đời (giáo dục, y tế, dinh dưỡng, bảo vệ, bảo trợ xã hội). Cần ưu tiên tập trung cho các xã miền núi, biên giới, hải đảo, và các địa bàn chịu ảnh hưởng nặng nề của BĐKH. Uu tiên trẻ em thuộc nhóm yếu thế, dân tộc thiểu số, và người nghèo nhằm thu hẹp bất bình đẳng. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần hướng dẫn các địa phương xây dựng dự toán chi ngân sách địa phương cho giáo dục và đào tạo đạt tối thiểu 20% tổng chi ngân sách, trong đó chi đầu tư đạt ít nhất 5% tổng chi ngân sách.
Cần ưu tiên ban hành Chiến lược Quốc gia về trẻ em đến năm 2045 để làm căn cứ lồng ghép nội dung trẻ em vào các chiến lược, quy hoạch ngành, địa phương, và bố trí nguồn lực. Về mặt kỹ thuật tài chính, cần xây dựng một hệ thống chỉ số phân loại, định lượng, đánh giá chi tiêu công (bao gồm chi đầu tư và chi thường xuyên) hướng tới trẻ em. Đồng thời, bổ sung các chỉ tiêu về hoàn thành kiên cố hóa trường, lớp học; đảm bảo vận hành hiệu quả các trường nội trú và nơi ở của giáo viên vùng sâu, vùng xa, đáp ứng các quy chuẩn về bảo vệ trẻ em. Phấn đấu chỉ số bất bình đẳng giáo dục giảm xuống dưới 10%.
Trong vĩnh vực Y tế, cần lồng ghép chỉ tiêu giảm thiểu tình trạng suy dinh dưỡng trẻ em dân tộc thiểu số (SDG 2); giảm tỷ suất tử vong mẹ xuống dưới 45/100.000 trẻ đẻ sống và giảm tỷ suất tử vong trẻ dưới 5 tuổi xuống dưới 15 ca trên 1.000 trẻ đẻ sống vào năm 2030. Đặc biệt, cần xây dựng các chỉ tiêu ưu tiên cho BĐKH và giảm nhẹ rủi ro thiên tai cho trẻ em ở cấp địa phương, bao gồm cả số trường học kiên cố, số cơ sở y tế xây mới, và số đối tượng được mua BHYT (trẻ em dưới 6 tuổi, người dân tộc thiểu số, học sinh...).
Trẻ em là nhóm dễ bị tổn thương nhất trước BĐKH, và việc đặt các em ở vị trí trung tâm trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2026-2030 là yếu tố then chốt để đảm bảo công bằng xã hội và phát triển bền vững. Các Chương trình Mục tiêu Quốc gia mới giai đoạn 2026-2035 mở ra cơ hội lớn để giải quyết các vấn đề cấu trúc về cơ sở vật chất và nguồn nhân lực. |
Bên cạnh đó, để tăng cường khả năng chống chịu của hệ thống dịch vụ thiết yếu, thích ứng hiệu quả với BĐKH, đầu tư cần chuyển đổi từ mô hình ứng phó thảm họa sang khuôn khổ phát triển kiên cường, lấy trẻ em làm trung tâm. Cần củng cố hệ thống trợ giúp xã hội chủ động, có khả năng thích ứng với các cú sốc khí hậu. Thiết kế các cơ chế cảnh báo sớm và hỗ trợ khẩn cấp để đảm bảo trẻ em ở các nhóm yếu thế tiếp cận hỗ trợ kịp thời khi thiên tai xảy ra. Tăng cường đầu tư vào y tế dự phòng và y tế cơ sở để quản lý các bệnh dịch nhạy cảm với khí hậu. Tích hợp kế hoạch giám sát an ninh lương thực và dinh dưỡng vào các kịch bản khí hậu cực đoan cấp tỉnh.
Xây dựng trường học an toàn, thích ứng với BĐKH và lồng ghép nội dung giáo dục về môi trường, BĐKH và kỹ năng xanh vào chương trình học chính khóa để nâng cao năng lực thích ứng của trẻ em. Cần tạo cơ chế phù hợp (như ưu đãi về vay vốn, thuế, tiếp cận đất đai) để huy động khu vực tư nhân tham gia đầu tư cho trẻ em. Đối với các dự án sử dụng vốn ODA và vốn vay ưu đãi, cần xây dựng bộ tiêu chí ưu tiên lồng ghép yếu tố trẻ em và BĐKH.
Đầu tư cho trẻ em trong bối cảnh biến đổi khí hậu không chỉ là trách nhiệm đạo lý mà còn là đầu tư chiến lược cho khả năng chống chịu của quốc gia trong tương lai. Việc bổ sung nguồn lực, hoàn thiện hệ thống thể chế, và lồng ghép quyền trẻ em vào các tiêu chí thẩm định dự án là “chìa khóa” để Việt Nam vững bước hướng tới mục tiêu thu nhập cao vào năm 2045.
![]() |