|
|
Tại Diễn đàn Kinh tế - Tài chính 2025, các chuyên gia trong nước và quốc tế đã đưa ra nhiều phân tích sâu sắc về những xu hướng lớn định hình kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới. Từ yêu cầu nâng cao năng suất, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng tốc chuyển đổi xanh cho tới tái định hình không gian và động lực tăng trưởng, các khuyến nghị đều nhấn mạnh sự cấp thiết của cải cách toàn diện nhằm giúp Việt Nam củng cố sức chống chịu, duy trì đà tăng trưởng và nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu. Tạp chí Kinh tế - Tài chính ghi nhận những chia sẻ, phân tích và góc nhìn đáng chú ý được trình bày tại Diễn đàn.
|
Theo TS. Nguyễn Như Quỳnh - Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách kinh tế - tài chính (Bộ Tài chính), Việt Nam bước vào giai đoạn 2024-2025 với mức phục hồi kinh tế nhanh hơn nhiều quốc gia trong khu vực, thể hiện qua tăng trưởng GDP theo quý cải thiện liên tục và các chỉ số PMI bật tăng mạnh từ quý II. Sự phục hồi này được hỗ trợ bởi quyết tâm cao của toàn hệ thống chính trị, sự ổn định vĩ mô và phục hồi tiêu dùng nội địa.
Hoạt động thương mại và đầu tư là điểm sáng nổi bật khi kim ngạch thương mại 9 tháng năm 2025 đạt hơn 680 tỷ USD, tăng 17,3%, đồng thời FDI liên tục lập mức kỷ lục mới. Tổng đầu tư toàn xã hội tăng mạnh theo quý, phản ánh niềm tin vào triển vọng kinh tế trong trung và dài hạn. Tuy vậy, một số rủi ro bên ngoài như xung đột địa chính trị, bất ổn thương mại và thiên tai vẫn có khả năng ảnh hưởng đà phục hồi.
![]() |
Bên cạnh các yếu tố thuận lợi, TS. Nguyễn Như Quỳnh cho rằng, nền kinh tế cũng đối mặt những thách thức nội tại mang tính cấu trúc, gồm năng suất thấp, tăng trưởng dựa nhiều vào mở rộng nguồn lực và quá trình già hóa dân số diễn ra nhanh. Điểm nghẽn về thực thi chính sách, hạ tầng và nguồn nhân lực kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ cũng ảnh hưởng đến tốc độ phát triển. Việc chưa tận dụng tốt các cam kết quốc tế để tái cấu trúc kinh tế tiếp tục là hạn chế lớn.
Để đạt mục tiêu tăng trưởng cao trong giai đoạn tăng tốc, Việt Nam cần tạo ra những đột phá trong các cấu phần tăng trưởng. Nhiều ngành phải đạt mức tăng hai con số, đặc biệt chế biến - chế tạo cần duy trì trên 12% để giữ vai trò đầu tàu. Chuyển đổi số, kinh tế số và các ngành dựa trên đổi mới sáng tạo được xem là cơ hội then chốt để rút ngắn khoảng cách công nghệ. Điều quan trọng là quyết tâm và khả năng thực thi chính sách.
![]() |
Theo TS. Nguyễn Như Quỳnh, một định hướng đột phá trong giai đoạn 2026-2030 là điều chỉnh không gian phát triển kinh tế - xã hội. Việc tái phân vùng, mở rộng các vùng động lực và hình thành hệ thống hành lang kinh tế Bắc - Nam, Đông - Tây được xác định là nền tảng thúc đẩy liên kết vùng. Ba hành lang kinh tế sẽ hoàn thiện trước 2030, sau đó mở rộng thành bảy hành lang lớn, kết nối các trung tâm tăng trưởng, cảng biển và trục giao thông chiến lược nhằm tối ưu hóa dòng vốn và thương mại.
Những điều chỉnh này đòi hỏi một mô hình quản trị mới, trong đó Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, tập trung hoàn thiện hạ tầng chiến lược, còn khu vực tư nhân trở thành động lực đổi mới. Thu hút FDI có chọn lọc hướng tới công nghệ cao và tiêu chuẩn ESG được nhấn mạnh là định hướng dài hạn. Với khát vọng phục hồi và tăng tốc, Việt Nam kỳ vọng giai đoạn 2026-2030 sẽ tạo đột phá để đạt mục tiêu trở thành nước phát triển vào năm 2045.
![]() |
Theo ông Jochen Schmittmann - Đại diện thường trú, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tại Việt Nam, Lào và Campuchia, Việt Nam đã duy trì một quỹ đạo phát triển ấn tượng, với nền tảng kinh tế mở, năng động và được thúc đẩy bởi quá trình chuyển dịch mạnh mẽ trong cơ cấu xuất khẩu. Tăng trưởng 7,8% trong 9 tháng năm 2025 phản ánh sức bật mạnh của đầu tư, tiêu dùng tư nhân và hoạt động xuất nhập khẩu. Trong khi đó, chính sách tiền tệ và tài khóa tiếp tục hỗ trợ nền kinh tế, giúp duy trì ổn định vĩ mô và tạo dư địa ứng phó rủi ro.
Đại diện IMF ghi nhận Việt Nam đang thực hiện nhiều cải cách quan trọng nhưng vẫn đối diện những “cơn gió ngược” ngày càng rõ nét. Nền kinh tế phụ thuộc lớn vào thương mại, đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ, khiến rủi ro bên ngoài gia tăng. Cùng với đó, tăng trưởng tín dụng nhanh, bộ đệm vốn ngân hàng còn mỏng và sự nổi lên của tài sản mã hóa đang đặt ra yêu cầu thận trọng hơn đối với ổn định tài chính và giám sát hệ thống.
|
“Triển vọng dài hạn của Việt Nam chịu tác động bởi tốc độ tăng thu nhập và xu hướng già hóa dân số. IMF đặc biệt nhấn mạnh vấn đề năng suất - yếu tố quyết định tăng trưởng bền vững. Hiện tại, TFP của Việt Nam đang thấp hơn nhiều so với nhóm thị trường mới nổi, cho thấy những méo mó trong phân bổ nguồn lực, chi phí vay vốn của doanh nghiệp tư nhân cao hơn so với khu vực FDI và doanh nghiệp nhà nước, cùng những bất cập trong cơ cấu lao động”, ông Jochen Schmittmann nhận định.
Trước những thách thức đó, ông Jochen Schmittmann đề xuất Việt Nam tiếp tục ưu tiên các chính sách tài khóa và tiền tệ thận trọng nhằm củng cố sức chống chịu. Dư địa tài khóa cần được tận dụng cho đầu tư phát triển và an sinh xã hội khi cần thiết. Việc cho phép tỷ giá linh hoạt hơn, nâng cao năng lực dự báo và hiện đại hóa khuôn khổ chính sách tiền tệ sẽ giúp giảm rủi ro và ổn định nền kinh tế trong trung hạn.
Theo ông Jochen Schmittmann, các cải cách cơ cấu đầy tham vọng sẽ là chìa khóa để Việt Nam duy trì tăng trưởng bền vững trong giai đoạn 2026-2030. Ưu tiên hàng đầu là cải thiện thị trường lao động và tín dụng, tăng cường quản trị kinh tế, nâng cao hiệu quả đầu tư công và chất lượng thống kê. Khi những cải cách này được triển khai đồng bộ, Việt Nam có cơ hội vượt qua thách thức, củng cố vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu và duy trì câu chuyện tăng trưởng bền vững.
![]() |
Theo ông Nguyễn Bá Hùng - Chuyên gia Kinh tế trưởng, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) tại Việt Nam, hiện nay, kinh tế châu Á nổi lên với sự khác biệt khi tăng trưởng được dẫn dắt bởi xuất khẩu, lạm phát giảm nhờ giá năng lượng và thực phẩm hạ nhiệt. Tuy nhiên, khu vực cũng đối diện nhiều rủi ro khi đầu tư tại Trung Quốc suy yếu và tiêu dùng Ấn Độ chậm lại. Dù có tín hiệu tích cực, đà phục hồi của châu Á vẫn dễ tổn thương trước những thay đổi chính sách thương mại và căng thẳng kinh tế toàn cầu.
Dự báo tăng trưởng toàn cầu và khu vực đều được điều chỉnh giảm so với các kỳ trước. Thuế quan tăng cao của Hoa Kỳ dự kiến làm suy yếu hoạt động của các nền kinh tế tiên tiến lớn, kéo theo giảm tốc thương mại quốc tế. Song song đó, giá dầu được dự đoán tiếp tục giảm, giá gạo ổn định, giúp giảm áp lực lạm phát. Đối với các nước đang phát triển châu Á, tăng trưởng năm 2025 được ước tính giảm xuống còn 4,8%.
|
Các đánh giá cho thấy những thay đổi từ môi trường quốc tế sẽ tác động mạnh đến kinh tế - tài chính Việt Nam, một nền kinh tế có độ mở lớn và phụ thuộc đáng kể vào thương mại. Trong dài hạn, Việt Nam cần lựa chọn chiến lược cân bằng giữa hấp thụ FDI và phát triển thị trường trong nước. Nâng cao năng lực cạnh tranh xuất khẩu của doanh nghiệp nội địa được nhấn mạnh như điều kiện then chốt để duy trì tăng trưởng bền vững.
Từ phía cung, chính sách công nghiệp, mở rộng sản xuất và phát triển kinh tế dịch vụ là hai trụ cột quan trọng. Chuyển đổi số mở ra cơ hội tăng năng suất, đặc biệt khi đường biên sản xuất gặp hạn chế bởi tăng trưởng lao động chậm và chi phí cao hơn. Việc cải thiện hiệu quả của các yếu tố sản xuất - từ lao động, vốn đến công nghệ được xem là động lực quyết định nâng cao năng suất tổng hợp của nền kinh tế.
Việt Nam cần tập trung vào cải thiện môi trường kinh doanh, tăng tính hiệu quả trong quản lý và thực thi hợp đồng, đồng thời thúc đẩy vai trò của công nghệ trong quản trị và phối hợp thị trường. Các ưu tiên chiến lược này, nếu được triển khai đồng bộ, sẽ giúp Việt Nam không chỉ nâng sức chống chịu trước biến động toàn cầu mà còn mở rộng dư địa tăng trưởng, tạo nền tảng vững chắc cho giai đoạn phát triển mới.
![]() |
Chia sẻ tại Diễn đàn, ông Vũ Quốc Huy - Giám đốc Trung tâm Đổi mới sáng tạo Quốc gia (NIC) - Bộ Tài chính cho biết, trong bối cảnh khoa học - công nghệ toàn cầu phát triển với tốc độ chưa từng có, đổi mới sáng tạo được coi là động lực tăng trưởng chủ yếu của các nền kinh tế mới nổi. Việt Nam đứng trước cơ hội lớn từ làn sóng dịch chuyển chuỗi cung ứng công nghệ cao và sự cạnh tranh gay gắt trong môi trường toàn cầu. Đây là thời điểm then chốt để chuyển đổi mô hình tăng trưởng, từ dựa vào lao động giá rẻ sang dựa trên tri thức, công nghệ và sáng tạo.
Thực trạng cho thấy mô hình tăng trưởng truyền thống của Việt Nam đã dần bộc lộ giới hạn, thể hiện qua năng suất lao động còn thấp so với các quốc gia trong khu vực. Trong khi đó, đổi mới sáng tạo đang đóng góp tới 50-70% tăng trưởng dài hạn của nhiều nền kinh tế thu nhập trung bình - cao. Sự quan tâm mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước, đặc biệt qua Nghị quyết 57 và Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sang tạo mới ban hành, tạo nền tảng chính sách quan trọng cho giai đoạn bứt phá mới.
![]() |
Việt Nam đã đạt nhiều kết quả ấn tượng trong đổi mới sáng tạo: hệ sinh thái khởi nghiệp với hơn 4.000 startup, 1.400 tổ chức hỗ trợ, 20 trung tâm sáng tạo và hệ thống mạng lưới đổi mới sang tạo vươn ra 22 quốc gia. Nhiều thành phố như TP. Hồ Chí Minh, Hà Nội và Đà Nẵng đã cải thiện mạnh thứ hạng toàn cầu. Tuy vậy, các thách thức vẫn lớn, từ thiếu nhân lực chất lượng cao đến hạn chế vốn R&D và năng lực của doanh nghiệp nội địa.
Trong bức tranh đó, NIC đang đóng vai trò hạt nhân thúc đẩy hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia. Với bốn trụ cột gồm đào tạo nhân lực, hỗ trợ doanh nghiệp, phát triển hệ sinh thái và thu hút đầu tư, NIC đã triển khai hàng loạt chương trình hợp tác quy mô lớn với Google, Intel, Samsung và nhiều đối tác quốc tế. Hàng chục nghìn học viên được đào tạo, hàng nghìn doanh nghiệp khởi nghiệp được hỗ trợ, tạo tác động mạnh mẽ đến thị trường nhân lực công nghệ.
Ngoài ra, NIC cũng mở rộng mạng lưới đổi mới sáng tạo Việt Nam ra toàn cầu, kết nối hơn 2.000 chuyên gia và nhà khoa học tại nhiều trung tâm công nghệ lớn như Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và châu Âu. Đồng thời, các hoạt động xúc tiến đầu tư đổi mới sáng tạo đã thu hút sự tham gia của hàng trăm quỹ đầu tư và tập đoàn lớn, thúc đẩy hàng tỷ USD cam kết vốn, hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam tiếp cận cơ hội hợp tác, chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Từ thực tiễn triển khai, ông Vũ Quốc Huy đề xuất nhiều gợi mở nhằm thực thi hiệu quả chiến lược đổi mới sáng tạo quốc gia. Trong đó, cần ưu tiên hoàn thiện cơ sở vật chất khoa học - công nghệ, tăng đầu tư cho R&D, xây dựng chính sách thu hút và trọng dụng nhân tài, đồng thời tháo gỡ rào cản trong sử dụng tài sản công cho đổi mới sáng tạo. Khi các giải pháp được triển khai đồng bộ, đổi mới sáng tạo sẽ trở thành động lực mới, giúp Việt Nam bứt phá trong giai đoạn phát triển tiếp theo.
![]() |
Tại Diễn đàn, ông David Ambadar - Trưởng Dự án, Dự án Chuyển dịch dòng đầu tư theo hướng chuyển đổi xanh của Tổ chức Hợp tác quốc tế Đức (GIZ) nhấn mạnh rằng, đầu tư cho chuyển đổi xanh đang trở thành yêu cầu chiến lược của mọi nền kinh tế. Việt Nam đã xác định tăng trưởng xanh và phát triển bền vững là lựa chọn không thể đảo ngược, được thể chế hóa qua các nghị quyết quan trọng như 68-NQ/TW, 70-NQ/TW hay chương trình phát triển trung tâm tài chính quốc tế. Đây là cơ sở chính sách nhằm thu hút và điều phối dòng vốn cho mục tiêu “Net Zero”.
Thực tế cho thấy nhu cầu vốn cho chuyển đổi xanh của Việt Nam rất lớn, ước tính cần 368 tỷ USD đến năm 2050 cho các lĩnh vực công nghiệp, vận tải, nông nghiệp và năng lượng. Trong đó, khu vực tư nhân đóng vai trò chủ lực với hơn 70% nhu cầu đầu tư. Riêng ngành năng lượng, trụ cột của chuyển dịch xanh đòi hỏi dòng vốn khổng lồ cho điện tái tạo, lưới điện, lưu trữ và các công nghệ mới như hydrogen hay thu hồi carbon.
![]() |
Quy hoạch Điện VIII khẳng định khu vực tư nhân sẽ đảm nhận phần lớn vốn đầu tư sản xuất điện giai đoạn 2025-2030, chiếm 76,8% tổng mức đầu tư. Nhu cầu tài chính lên tới hơn 136 tỷ USD cho cả sản xuất và lưới điện cho thấy Việt Nam cần một hệ thống tài chính xanh đủ mạnh để đáp ứng yêu cầu tăng trưởng. Đây là điều kiện để hạn chế rủi ro an ninh năng lượng và đảm bảo tiến trình khử carbon theo cam kết quốc tế.
Bức tranh tài chính xanh của Việt Nam đang có chuyển biến tích cực. Dư nợ tín dụng xanh đạt 742.000 tỷ đồng, tương đương 6,44% GDP; trái phiếu xanh trong nước đạt 25.000 tỷ đồng chỉ sau ba năm triển khai; cùng nhiều nguồn lực mới như tín chỉ carbon. Dù vậy, quy mô tổng thể vẫn nhỏ so với nhu cầu thực tế. Điều này đòi hỏi sự tham gia mạnh mẽ hơn từ hệ thống ngân hàng, các nhà phát hành trái phiếu và khu vực đầu tư quốc tế.
![]() |
Ở góc nhìn quốc tế, các công cụ tài chính xanh như trái phiếu GSS và thị trường carbon được xem là động lực quan trọng, mang lại nguồn thu hàng trăm tỷ USD cho nhiều nền kinh tế. Mô hình ETS của châu Âu cho thấy khả năng giảm phát thải mạnh mẽ khi kết hợp định giá carbon với tái đầu tư doanh thu vào năng lượng sạch. Việt Nam hoàn toàn có tiềm năng kết nối thị trường carbon toàn cầu để mở rộng nguồn lực cho chuyển đổi xanh.
Đại diện GIZ cho biết Việt Nam đang nhận được nhiều hỗ trợ quốc tế, đặc biệt từ Đức, trong phát triển tài chính xanh và công nghệ sạch. Các chương trình đã hỗ trợ hơn 57.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa chuyển đổi xanh, giảm hơn 256.000 tấn CO₂, thúc đẩy các đợt phát hành trái phiếu xanh đầu tiên và hỗ trợ xây dựng chiến lược hydrogen quốc gia. Nếu tận dụng tốt cơ hội này, Việt Nam có thể trở thành trung tâm tăng trưởng xanh mới của khu vực.
![]() |
Mục tiêu phát thải ròng bằng “0” đang trở thành xu hướng phát triển tất yếu của thế giới. Khi các nền kinh tế chuyển hướng sang mô hình xanh và bền vững hơn, việc giảm phát thải không chỉ là nhiệm vụ môi trường mà còn là chiến lược kinh tế dài hạn. Việt Nam được đánh giá có nhiều tiềm năng để tham gia sâu vào quá trình chuyển đổi này.
Bức tranh phát thải toàn cầu cho thấy lượng khí nhà kính tiếp tục tăng nhanh, đặc biệt từ các lĩnh vực năng lượng, công nghiệp và vận tải. Các xu hướng này đòi hỏi các quốc gia phải áp dụng triệt để các biện pháp cải thiện hiệu quả sử dụng tài nguyên. Theo GS. Robert Elliott - Giám đốc nghiên cứu, Trường Kinh doanh, Đại học Birmingham, Vương quốc Anh, tối ưu hóa năng lượng, nước, vật liệu và đất đai sẽ giúp giảm đáng kể chi phí, tăng sức cạnh tranh và đồng thời góp phần thực hiện cam kết khí hậu một cách bền vững.
![]() |
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên đang trở thành một chiến lược kinh tế mới, tạo giá trị gia tăng thông qua giảm tiêu hao đầu vào và thúc đẩy đổi mới công nghệ. Các định hướng chuyển đổi năng lượng theo hướng xanh, gồm mở rộng năng lượng tái tạo, tăng cường lưu trữ, áp dụng hydrogen và cải thiện hệ thống truyền tải được xem là chìa khóa để giảm phát thải. Đây cũng là nền tảng quan trọng cho các ngành công nghiệp trong quá trình tái cấu trúc.
Chuyển đổi công nghiệp theo hướng xanh sẽ tạo ra sự thay đổi sâu rộng trong các lĩnh vực sản xuất. Công nghệ số, đặc biệt là dữ liệu lớn, AI và các hệ thống mô phỏng, đóng vai trò thiết yếu trong tối ưu hóa tài nguyên và giám sát phát thải theo thời gian thực. Đồng thời, việc mở rộng các công cụ tài chính xanh và nguồn vốn ưu đãi giúp doanh nghiệp giảm rủi ro, nâng cao năng lực đầu tư vào công nghệ tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải.
GS. Robert Elliott cũng phân tích nhiều kinh nghiệm quốc tế về chuyển đổi xanh, trong đó nhấn mạnh tầm quan trọng của khung chính sách và cơ chế vận hành hiệu quả. Những quốc gia thành công thường kết hợp thuế carbon, thị trường phát thải và hỗ trợ doanh nghiệp theo lộ trình rõ ràng. Đồng thời, yếu tố công bằng trong chuyển đổi, đảm bảo không nhóm dân cư hay ngành nghề nào bị bỏ lại phía sau – được xem là trụ cột của phát triển bền vững.
Đối với Việt Nam, con đường hướng tới phát thải ròng bằng “0” đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội. Các rào cản như hạn chế về công nghệ, tài chính và năng lực triển khai cần được tháo gỡ bằng chính sách mạnh mẽ hơn và đầu tư chiến lược. Với quyết tâm cao và xu thế chuyển đổi toàn cầu, Việt Nam được kỳ vọng có thể nắm bắt cơ hội để phát triển xanh, duy trì tăng trưởng và nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị quốc tế.
![]() |
![]() |