![]() |
Chuyển đổi xanh và phát triển bền vững không chỉ là xu thế tất yếu, mà đã trở thành mệnh lệnh hành động đối với mọi ngành công nghiệp, mọi địa phương và doanh nghiệp.
![]() |
Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2025 của Cục Thống kê (Bộ Tài chính) cho thấy, sản xuất công nghiệp trong tháng 11 năm 2025 tiếp tục duy trì xu hướng tăng trưởng tích cực do các doanh nghiệp tăng cường sản xuất để chuẩn bị nguồn hàng phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu cuối năm.
Theo đó, chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 11 năm 2025 ước tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung mười một tháng năm 2025, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 9,3% so với cùng kỳ năm trước.
Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng Mười Một ước tăng 2,3% so với tháng trước và tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 11,8% so với cùng kỳ năm trước; ngành khai khoáng tăng 7,0%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 6,5%; sản xuất và phân phối điện tăng 5,8%.
![]() |
Đáng chú ý, chỉ số sản xuất công nghiệp 11 tháng năm 2025 của một số ngành trọng điểm cấp II tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sản xuất xe có động cơ tăng 22,0%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 16,5%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 16,4%; sản xuất kim loại tăng 15,5%; sản xuất trang phục tăng 13,5%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn (trừ máy móc, thiết bị) tăng 12,6%; sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 11,6%; sản xuất da và các sản phẩm có liên quan và sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất cùng tăng 11,2%; sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 10,6%; sản xuất chế biến thực phẩm tăng 10,5%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 10,1%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học tăng 8,5%. Ở chiều ngược lại, chỉ số IIP của một số ngành tăng thấp hoặc giảm: Khai thác than cứng và than non tăng 3,7%; khai thác dầu thô và khí đốt tự nhiên giảm 2,7%.
Một số sản phẩm công nghiệp chủ lực trong 11 tháng năm 2025 tăng so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, Ô tô tăng 37,4%; tivi tăng 19,0%; thép cán tăng 18,5%; thức ăn cho thủy sản tăng 14,8%; quần áo mặc thường tăng 14,2%; xi măng tăng 14,1%; giày, dép da tăng 12,8%; đường kính tăng 12,3%; phân hỗn hợp NPK tăng 11,9%; sơn hóa học tăng 10,9%. Ở chiều ngược lại, một số sản phẩm giảm so với cùng kỳ năm trước: Khí đốt thiên nhiên dạng khí giảm 5,9%; vải dệt từ sợi nhân tạo giảm 1,8%.
![]() |
![]() |
Thế giới đang trải qua làn sóng mạnh về phát triển xanh, giảm phát thải và bảo vệ môi trường. Các nước đặt mục tiêu trung hòa carbon vào giữa thế kỷ, đẩy mạnh năng lượng tái tạo, kinh tế tuần hoàn và sản xuất thân thiện với môi trường. Trong bối cảnh đó, các chuỗi cung ứng toàn cầu ngày càng ưu tiên nguồn hàng “xanh, sạch, có trách nhiệm”- đặt ra tiêu chuẩn rất cao với doanh nghiệp sản xuất.
Việt Nam - quốc gia đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, xuất khẩu - không thể đứng ngoài xu thế đó. Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), quốc gia này đã cam kết giảm phát thải khí nhà kính, với mục tiêu giảm 15,8 % tổng phát thải GHG vào 2030 và có thể giảm tới 43,5 % nếu có hỗ trợ quốc tế.
Trong bối cảnh đó, việc chuyển đổi mô hình từ khu công nghiệp truyền thống sang khu công nghiệp xanh, khu công nghiệp sinh thái không chỉ là xu thế tất yếu mà còn là “chìa khóa” giúp các doanh nghiệp và nền kinh tế nâng cao năng lực cạnh tranh; đồng thời, kiến tạo một tương lai bền vững.
Theo bà Nguyễn Thị Lâm Giang -Cục trưởng Cục Đổi mới sáng tạo, Chuyển đổi xanh và Khuyến công (Bộ Công Thương) chia sẻ, năm 2025 là giai đoạn bản lề quan trọng của nền kinh tế Việt Nam - vừa phục hồi mạnh mẽ sau những biến động toàn cầu, vừa đối mặt với thách thức từ biến đổi khí hậu và yêu cầu ngày càng cao về tiêu chuẩn môi trường trong thương mại quốc tế. Trong bối cảnh đó, chuyển đổi xanh và phát triển bền vững không chỉ là xu thế tất yếu, mà đã trở thành mệnh lệnh hành động đối với mọi ngành công nghiệp, mọi địa phương và doanh nghiệp.
Ở góc độ doanh nghiệp, ông Hoàng Mạnh Cường - Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần đầu tư hạ tầng khu công nghiệp Bảo Minh cho biết, khu công nghiệp quy tụ nhiều doanh nghiệp lớn trong ngành sản xuất vải và dệt may, được xem là một trung tâm dệt may quy mô lớn của miền Bắc Việt Nam. Hạ tầng của khu công nghiệp được đầu tư đồng bộ, bao gồm khu xử lý nước thải tập trung, khu dịch vụ, khu nhà ở công nhân với 388 căn hộ cùng hệ thống không gian xanh, tiện ích, trong đó hơn 12% diện tích đất dành cho cây xanh, khu thể thao, công viên và các công trình phúc lợi.
![]() |
Thông tin thêm, về hành trình chuyển đổi xanh (2020-2025) ông Hoàng Mạnh Cường cho hay, giai đoạn 2020, khu công nghiệp có 18 lò hơi sử dụng than đá; chỉ có 2/14 doanh nghiệp lắp đặt hệ thống điện mặt trời áp mái với tổng công suất 2,9 MW/h, chiếm khoảng 1,6% tổng sản lượng điện tiêu thụ. Đến năm 2025, 8/9 doanh nghiệp chuyển đổi nguyên liệu đốt từ than đá sang Biomas 20 lò hơi chuyển sang Biomass; 10/17 doanh nghiệp lắp đặt điện mái nhà với tổng công suất 23,8 MW/h chiếm 13% tổng lượng điện tiêu thụ…
Bên cạnh đó, khu công nghiệp áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn và cộng sinh công nghiệp, trong đó chất thải của doanh nghiệp này trở thành nguyên liệu đầu vào cho doanh nghiệp khác. Năm 2025, khu công nghiệp Bảo Minh đã giảm được khoảng 172.000 tấn CO2 phát thải, nhờ chuyển đổi công nghệ, năng lượng sạch và tối ưu quy trình vận hành.
Chia sẻ về mục tiêu và giải pháp đến năm 2030, theo đại diện Khu công nghiệp Bảo Minh, một là tái sử dụng 30% tổng lượng nước thải phát sinh, phục vụ tái sản xuất, tưới cây, vệ sinh và phòng cháy chữa cháy; hai là sản xuất 30.000 MWh/năm từ điện mặt trời, chiếm 16.3% tổng lượng điện tiêu thụ; ba là đóng góp vào mục tiêu giảm phát thải carbon tổng thể của khu công nghiệp, hướng tới trung hòa carbon.
Ông Trần Thanh Bình - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, cũng nhấn mạnh việc khởi động lộ trình các khu công nghiệp xanh, khu công nghiệp phát thải ròng bằng 0 (Net Zero Industrial Parks - NZIPs) không chỉ là giải pháp ứng phó với biến đổi khí hậu mà còn là công cụ nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Theo ông Bình, việc chuyển đổi xanh cần chính sách nhà nước thúc đẩy, song doanh nghiệp trong khu công nghiệp cũng phải có trách nhiệm với môi trường, từ giảm phát thải trong sản xuất đến sử dụng năng lượng sạch; đồng thời, cần đồng bộ bộ chỉ tiêu chuyển đổi xanh và hệ thống chính sách nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp giám sát và đánh giá hiệu quả chuyển đổi.
![]() |