ĐẶNG NGỌC TÚ

Email: dangnt@gmail.com.

MACROECONOMIC REVIEW 2025 AND OUTLOOK FOR 2026

Summary

Thanks to the coordination of fiscal and monetary policies aimed at stimulating domestic demand, Viet Nam 's economy recovered strongly in 2025, with growth exceeding the target. In terms of macroeconomic stability, inflation was kept below the ceiling, interest rates remained relatively stable, and the balance of payments continued to improve. Looking ahead to 2026, achieving a GDP growth rate of 10% or higher will require significant effort, as the economy faces supply-side constraints, rising labor costs, and the productivity that has not increased proportionately. To reach this growth target, the key priority is to enhance productivity while maintaining an appropriate level of investment. At the same time, preserving macroeconomic stability requires a gradual shift towards a more cautious monetary stance, tighter control of credit growth, and further progress towards an inflation-targeting framework. Meanwhile, fiscal policy should continue to play a proactive role, with a strong emphasis on efficient public investment.

Keywords: GDPgrowth, inflation, fiscal policy, monetary policy, forecasting

TÌNH HÌNH KINH TẾ vĩ MÔ NĂM 2025

Tăng trưởng kinh tế đạt mức cao nhờ đóng góp tích cực từ phía cầu, đặc biệt là tiêu dùng và đầu tư

Kinh tế vĩ mô năm 2025 và triển vọng năm 2026

Tăng trưởng GDP năm 2025 ước đạt 8,2%, vượt mục tiêu 8% tại Nghị quyết 192/2025/QH15 của Quốc hội. Với mức tăng trưởng này, khoảng cách giữa GDP thực tế và sản lượng tiềm năng (potential output) là âm 0,1%, thu hẹp đáng kể so với mức âm 2,2% năm 2024 (Tác giả tính dựa trên mô hình kinh tế lượng vĩ mô cấu trúc).Do sản lượng tiềm năng đại diện cho phía cung, sự thu hẹp này cho thấy tăng trưởng năm 2025 có đóng góp tích cực từ phía cầu. Phân rã tăng trưởng GDP năm 2025 theo các thành phần của tổng cầu cho thấy mức tăng chủ yếu đến từ tiêu dùng và đầu tư: mức đóng góp vào tăng trưởng GDP năm 2025 của tiêu dùng ước là 6 điểm %, cao hơn nhiều mức 4,2 điểm % năm 2024; của đầu tư ước là 3 điểm %, cũng cao hơn mức 2,6 điểm % năm 2024 (Hình 1).

Kinh tế vĩ mô năm 2025 và triển vọng năm 2026

Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tiếp tục đóng góp lớn vào tăng trưởng năm 2025. Song, giống như nhiều năm qua, do phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu thiết bị và nguyên vật liệu, xuất khẩu ròng (xuất khẩu trừ nhập khẩu) vẫn ước đóng góp âm 0,8 điểm % vào tăng trưởng năm 2025.

Trong cơ cấu tiêu dùng, tiêu dùng của Nhà nước đóng góp tích cực hơn cho tăng trưởng. Năm 2025, mức đóng góp của tiêu dùng của Nhà nước vào tăng trưởng GDP ước là 1,5 điểm %, cao hơn đáng kể so với 0,5 điểm % năm 2024. Trong khi đó, tiêu dùng hộ gia đình hầu như không thay đổi so với năm trước, về cơ cấu đầu tư, như sẽ phân tích dưới đây, đầu tư của Nhà nước cũng có đóng góp tích cực cho tăng trưởng.

Chính sách thuế đối ứng của Mỹ chưa tác động nhiều đến xuất khẩu và dòng vốn đầu tư nước ngoài trong năm 2025

Tính đến ngày 18/8/2025, Việt Nam về cơ bản đã đạt được thỏa thuận áp mức thuế đối ứng 20% đối với hầu hết hàng hóa xuất khẩu sang Mỹ (và 40% đối với hàng trung chuyển, tương tự như các quốc gia khác). Theo đánh giá của Cấn Văn Lực (2025), mức thuế 20% này so với mặt bằng chung các quốc gia mà Mỹ áp thuế được xem là trung bình, thậm chí có phần lợi thế hơn so với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp trong xuất khẩu như Trung Quốc, Ấn Độ... Điều này cho thấy, mặc dù thuế đối với hàng xuất khẩu tăng lên, Việt Nam vẫn duy trì được vị thế cạnh tranh tương đối thuận lợi so với nhiều quốc gia khác, ít nhất trong trung hạn. Nhờ đó, trong năm 2025, xuất khẩu và đầu tư nước ngoài hầu như chưa chịu tác động rõ rệt từ chính sách thuế đối ứng. Cụ thể, giá trị xuất khẩu 10 tháng vẫn tăng 16,2% so với cùng kỳ năm trước, tăng so với mức 10,7% của 10 tháng năm 2024. Tương tự, vốn đầu tư của khu vực nước ngoài năm 2025, loại trừ yếu tố giá, ước tăng 10,5%, tương đương mức tăng trong năm 2024 (Hình 2).

Chính sách kinh tế vĩ mô có vai trò tích cực trong thúc đẩy cầu

Trước hết là chính sách tài khóa đã phát huy vai trò tích cực. Chi thường xuyên trong 9 tháng năm 2025 tăng tới 46,3% so với cùng kỳ năm trước, trong khi cùng kỳ năm 2024 chỉ tăng 9,5%. Sự gia tăng mạnh mẽ này góp phần quan trọng thúc đẩy tiêu dùng Nhà nước như đã phân tích trên. Đồng thời, chính sách tài khóa mở rộng còn thể hiện ở lĩnh vực đầu tư: đầu tư Nhà nước năm 2025, sau khi loại trừ yếu tố giá, ước tăng 9,5%, cao hơn nhiều so với mức 4,8% của năm 2024 (Hình 2).

Đồng thời, chính sách tiền tệ cũng phát huy vai trò tích cực trong năm 2025. Tổng phương tiện thanh toán ước tăng 16,8% - mức cao nhất kể từ năm 2017 - và dư nợ tín dụng ước tăng 20%, cũng là mức cao nhất kể từ năm 2012 (Hình 3). Sau giai đoạn tăng mạnh trong năm 2024, lãi suất liên ngân hàng đã duy trì ổn định và gần như đi ngang trong năm 2025 (chi tiết ở phần sau). Sự ổn định của lãi suất liên ngân hàng đã tạo điều kiện duy trì ổn định mặt bằng lãi suất huy động và cho vay, khuyến khích đầu tư tư nhân trong năm 2025 với tốc độ tăng ước là 7,5%, cao hơn mức 7,3% của năm 2024 (Hình 2).

Lạm phát giảm so với 2024 và thấp hơn nhiều mục tiêu, chủ yếu nhờ giảm giá hàng hóa thế giới

CPI bình quân năm 2025 ước là 3,4%, thấp hơn đáng kể so với mục tiêu 4,5-5% nêu trong Nghị quyết số 192/2025/QH15 của Quốc hội. Nguyên nhân chính là do giá hàng hóa thế giới giảm, kéo theo đóng góp của các nhóm hàng lương thực và giao thông (chủ yếu do giá xăng dầu) vào lạm phát bình quân giảm mạnh so với năm 2024 (Hình 4). Cụ thể, đóng góp của giá lương thực giảm từ 0,54 điểm % xuống chỉ còn 0,04 điểm %, trong khi của giá giao thông giảm từ 0,07 điểm % xuống âm 0,32

điểm %. Điều này cho thấy, lạm phát CPI giảm chủ yếu nhờ yếu tố giá thế giới, trong khi lạm phát cơ bản lại có xu hướng tăng kể từ tháng 9/2024, phản ánh tổng cầu đang trong xu hướng tăng nhanh hơn tổng cung.

Mặc dù chênh lệch lãi suất VND-USD thu hẹp, tỷ giá tăng mạnh hơn năm 2024

Kinh tế vĩ mô năm 2025 và triển vọng năm 2026

Lãi suất VND (lãi suất qua đêm trên thị trường liên ngân hàng) tăng trong khi lãi suất USD (lãi suất cho vay qua đêm trên thị trường liên ngân hàng Mỹ) giảm, giúp chênh lệch lãi suất VND-USD thu hẹp đáng kể so với năm 2024. Nếu như phần lớn thời gian năm 2024 chênh lệch lãi suất là khoảng âm 1 điểm %, thì sang năm 2025 đã về gần 0, thậm chí dương (Hình 5). Nhờ đó, mục "lỗi và sai sót" trong cán cân thanh toán đã cải thiện rõ rệt, khi mục này phản ánh phần nào sự dịch chuyển của dòng vốn ngắn hạn phi chính thức vốn nhạy cảm với chênh lệch lãi suất (Hình 6). Cùng với đó, việc kiểm soát thị trường vàng hiệu quả hơn cũng góp phần hạn chế hoạt động buôn lậu vàng - một nguyên nhân thường khiến mục "lỗi và sai sót" tăng. Nhờ những yếu tố trên, cán cân thanh toán sẽ cải thiện đáng kể trong năm 2025.

Mặc dù cán cân thanh toán cải thiện, tỷ giá liên ngân hàng trong năm 2025 vẫn thường xuyên duy trì ở mức sát trần biên độ, trong khi tỷ giá trên thị trường tự do nhiều thời điểm vượt trần. Tỷ giá liên ngân hàng trung bình tháng ước tăng 5,9% trong năm (dự báo từ mô hình ARIMA), so với 4,7% năm 2024. Nguyên nhân chủ yếu là do thị trường kỳ vọng VND sẽ mất giá trước tác động của chính sách tiền tệ nới lỏng và rủi ro lạm phát.

TRIỂN VỌNG KINH TẾ vĩ MÔ NĂM 2026

Kinh tế vĩ mô năm 2025 và triển vọng năm 2026

Triển vọng kinh tế vĩ mô năm 2026 được xây dựng trên hai giả định chính. Thứ nhất, thương mại toàn cầu được giả định phục hồi, với khối lượng hàng hóa và dịch vụ, như dự báo của IMF (2025), sẽ tăng 2,7% (so với 1,5% năm 2025). Thứ hai, chính sách kinh tế vĩ mô trong nước được giả định giảm bớt mức độ nới lỏng, với chi thường xuyên tăng 12,3% (so với 16,3% năm 2025) và dư nợ tín dụng tăng 16% (so với 20% năm 2025), nhằm phản ánh định hướng chính sách thận trọng hơn trong bối cảnh lạm phát bắt đầu xu hướng tăng. Các yếu tố khác, như tốc độ tăng năng suất tổng hợp (TFP) và tốc độ tăng đầu tư nước ngoài, được giả định giữ nguyên so với năm 2025. Trên cơ sở các giả định này, triển vọng kinh tế vĩ mô năm 2026 được tóm tắt tại Bảng 1, kèm theo các phân tích dưới đây.

Tăng trưởng kinh tế có nguy cơ chậm lại, nếu không có những đột phá về năng suất

Do chính sách kinh tế vĩ mô được giả định giảm bớt mức độ nới lỏng trong năm 2026, trong khi năng suất của nền kinh tế chưa có đột phá, tăng trưởng GDP dự báo giảm còn 8% (so với 8,2% năm 2025). Mức tăng trưởng này có thể thấp hơn nếu thương mại toàn cầu tăng thấp hơn giả định trong Bảng 1. Thuế quan và căng thẳng thương mại là một trong những rủi ro chính đối với triển vọng thương mại toàn cầu.

Lạm phát tiếp tục xu hướng tăng

Mặc dù giá hàng hóa thế giới giảm 2,3%, giảm nhiều hơn so với mức 1,1% năm 2025 (IMF 2025), và dư nợ tín dụng giả định tăng chậm lại, lạm phát CPI bình quân năm 2026 vẫn được dự báo tăng lên 4% do chênh lệch sản lượng mở rộng. Cụ thể, với mức tăng trưởng dự báo 8% trong năm 2026, chênh lệch giữa GDP và sản lượng tiềm năng được ước tính ở mức 1,6% (so với -0,1% năm 2025). Lạm phát thậm chí có thể cao hơn nếu:

Giá hàng hóa thế giới tăng trở lại thay vì giảm như kịch bản cơ sở, qua đó đẩy chi phí nhập khẩu và giá tiêu dùng trong nước lên cao. Rủi ro này chủ yếu xuất phát từ khả năng xung đột mới hoặc căng thẳng địa chính trị leo thang tại các khu vực trọng điểm (Trung Đông, Biển Đen, eo biển Hormuz), có thể làm gián đoạn nguồn cung năng lượng và lương thực, khiến giá hàng hóa thế giới tăng.

Tín dụng trong nước tăng nhanh hơn kịch bản cơ sở, cầu nội địa sẽ tăng mạnh, qua đó tạo thêm áp lực lạm phát.

KIẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH KINH TẾ vĩ MÔ

Chính sách tăng trưởng kinh tế

Như đã phân tích, mục tiêu tăng trưởng cao trong năm 2026 và những năm tiếp theo sẽ bị giới hạn chủ yếu bởi phía cung, tức năng lực sản xuất. Nếu tăng trưởng vượt quá mức gia tăng của năng lực sản xuất, nền kinh tế buộc phải dựa vào kích thích cầu. Tuy nhiên, biện pháp kích thích cầu chỉ phát huy tác dụng trong ngắn hạn và về dài hạn có thể có rủi ro đối với ổn định kinh tế vĩ mô. Trong bối cảnh chi phí lao động gia tăng do quá trình già hóa dân số, việc nâng cao năng suất trở thành yếu tố then chốt để cải thiện năng lực sản xuất. Các chủ trương, nghị quyết gần đây của Trung ương, đặc biệt là Nghị quyết 57-NQ/ TW về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, cùng với nghị quyết 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, đều nhấn mạnh thúc đẩy năng suất của nền kinh tế. Song song với đó, vẫn cần duy trì mức đầu tư hợp lý. Để đạt mục tiêu tăng trưởng tối thiểu 8% trong giai đoạn 2026-2030, tỷ lệ đầu tư phải mức tối thiểu 37% GDP (Bảng 2).

Chính sách tiền tệ

Trong bối cảnh lạm phát bắt đầu xu hướng tăng từ giữa năm 2025, chính sách tiền tệ trong năm 2026 cần điều chỉnh theo hướng giảm bớt mức độ nới lỏng. Cụ thể, tốc độ tăng dư nợ tín dụng nên được điều chỉnh giảm xuống khoảng 18%. Đồng thời, để đánh giá chính xác diễn biến lạm phát, cần theo dõi song song nhiều chỉ tiêu khác nhau, thay vì chỉ dựa vào một thước đo đơn lẻ. về dài hạn, khuôn khổ chính sách tiền tệ từng bước chuyển từ neo tỷ giá sang khuôn khổ lạm phát mục tiêu (inflation-target framework).

Chính sách tài khóa

Trong bối cảnh lạm phát có xu hướng gia tăng, việc phối hợp hài hòa giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ trở nên đặc biệt quan trọng. Các kết quả mô phỏng từ mô hình kinh tế lượng vĩ mô cấu trúc của tác giả cho thấy, với cùng một mức tác động đến tăng trưởng, chính sách tiền tệ tạo ra hiệu ứng phụ lớn hơn đối với lạm phát so với chính sách tài khóa. Nói cách khác, chính sách tài khóa có thể hỗ trợ tăng trưởng mà không làm gia tăng áp lực lạm phát mạnh như chính sách tiền tệ. Điều này hàm ý rằng trong năm 2026, việc duy trì chính sách tài khóa nới lỏng có chọn lọc, tập trung vào các lĩnh vực nâng cao năng suất và năng lực sản xuất, sẽ là giải pháp tối ưu để vừa hỗ trợ tăng trưởng, vừa tạo điều kiện cho chính sách tiền tệ có "không gian" tập trung vào mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.B

* Nội dung bài viết thể hiện quan điểm cá nhân, không phản ánh quan điểm của cơ quan công tác.

Tài liệu tham khảo:

Cấn Văn Lực. (2025). Doanh nghiệp xuất khẩu tìm giải pháp thích nghi với thuế đối ứng. https://tapchixaydung.vn/

Đặng Ngọc Tú (2021, 12/2021). Lựa chọn thước đo lạm phát lõi. Tạp chí Tài chính, 767, 4.

Government OỈUK (2014, 2014/05/20). Gross Domestic Product (GDP) deflators: Userguide.

Heimonen K. & Rõnkkõ R. (2024). The RMB's global role as an anchor currency: no evidence.

IMF. 2025. World Economic Outlook Data: April 2025 Edition.

Ngày nhận bài: 4/10/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 28/10/2025; Ngày duyệt đăng: 29/10/2025