Phát triển kinh tế xanh - Từ sức ép toàn cầu đến động lực tăng trưởng nội tại

Hoàng Minh

Việt Nam đang bước vào giai đoạn quyết định: Chủ động chuyển đổi xanh để bứt phá, hoặc chậm trễ và đối diện nguy cơ tụt hậu trong cuộc đua toàn cầu.

Nếu chỉ dựa vào nội lực, Việt Nam mới có thể giảm 10% phát thải, nhưng nếu có sự hỗ trợ từ quốc tế, con số có thể đạt 25%..
Nếu chỉ dựa vào nội lực, Việt Nam mới có thể giảm 10% phát thải, nhưng nếu có sự hỗ trợ từ quốc tế, con số có thể đạt 25%..

Theo TS. Bùi Thanh Minh - Phó Giám đốc Ban Nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV), cách đây 3 năm, Ban IV đã xây dựng báo cáo trình Chính phủ, trong đó nhấn mạnh chuyển đổi xanh là một cuộc đua toàn cầu mà Việt Nam bắt buộc phải chủ động bước vào để không bị bỏ lại phía sau. Đến nay, bối cảnh quốc tế và yêu cầu nội tại đã cho thấy tính cấp thiết của báo cáo này.

Các nền kinh tế phát triển không chỉ dựng hàng rào kỹ thuật mà còn coi tiêu chuẩn xanh là điều kiện tiên quyết để tham gia chuỗi giá trị. Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM) của Liên minh châu Âu, dự kiến áp dụng từ năm 2026, sẽ đánh thuế các sản phẩm phát thải cao, trực tiếp tác động đến những ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như thép, xi măng, nhôm, phân bón, điện. Xu thế toàn cầu hóa đang dịch chuyển sang khu vực hóa, gắn chặt sản xuất với an ninh kinh tế và an ninh quốc gia.

Trong giai đoạn 2022-2025, Việt Nam đã có những bước đi quan trọng để thích ứng. Thể chế chính sách về tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, năng lượng tái tạo và thị trường carbon được ban hành đồng bộ hơn. Các nghị quyết của Đảng về đổi mới mô hình tăng trưởng, phát triển kinh tế tư nhân, khoa học công nghệ trở thành định hướng trụ cột. Đặc biệt, Quyết định số 21/2025/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí môi trường và “danh mục xanh” đã tạo nền tảng pháp lý để ngân hàng, doanh nghiệp và cơ quan quản lý cùng sử dụng một ngôn ngữ chung trong đầu tư.

Những cải cách này phát đi tín hiệu rõ ràng cho doanh nghiệp. Từ chỗ còn bỡ ngỡ với khái niệm CBAM hay ESG, nhiều tập đoàn nay đã chủ động đo lường phát thải, công bố báo cáo bền vững và đầu tư công nghệ sạch.

Chẳng hạn, Hòa Phát đã tận dụng nhiệt dư để sản xuất điện, đáp ứng 90% nhu cầu nội bộ; doanh nghiệp dệt may, da giày đầu tư hệ thống xử lý nước tuần hoàn, chuyển sang năng lượng mặt trời nhằm giữ vững đơn hàng từ châu Âu. Đồng thời, các diễn đàn chuyên môn liên tục được tổ chức, lan tỏa thông điệp “kinh tế xanh không còn là lựa chọn mà là yêu cầu bắt buộc”.

Từ sau Đổi mới, mô hình tăng trưởng của Việt Nam chủ yếu dựa vào lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên, khiến giá trị gia tăng thấp và phát thải ngày càng lớn. Việt Nam hiện nằm trong nhóm 26 quốc gia phát thải cao nhất thế giới.

Để phát triển bền vững, Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2045 trở thành quốc gia thu nhập cao và đến năm 2050 đạt phát thải ròng bằng “0” (Net Zero). Nếu chỉ dựa vào nội lực, Việt Nam mới có thể giảm 10% phát thải, nhưng nếu có sự hỗ trợ từ quốc tế, con số có thể đạt 25%. Vì vậy, cần cơ chế chuyển đổi công bằng, hài hòa giữa các ngành nghề, cấp độ doanh nghiệp và cả giữa các quốc gia.

Kinh tế xanh được xem là “chìa khóa kép”: vừa mở ra động lực tăng trưởng mới, vừa đưa Việt Nam tiến gần mục tiêu Net Zero. Để làm được, cần đồng thời phát huy động lực thị trường, nội lực doanh nghiệp và trợ lực chính sách. Thị trường phải tạo nhu cầu thực chất cho sản phẩm xanh và định giá carbon hợp lý. Doanh nghiệp phải nâng cao năng lực đáp ứng tiêu chuẩn ESG, tái cơ cấu sản xuất, xanh hóa ngành nghề và phát triển công nghiệp phụ trợ. Nhà nước cần hoàn thiện hệ sinh thái chính sách, từ tài khóa xanh, tín dụng ưu đãi đến quy định định mức phát thải cơ sở.

Đặc biệt, thị trường tín chỉ carbon phải được sớm hình thành với cơ chế sở hữu rõ ràng, hàng hóa thực sự và khung pháp lý hoàn chỉnh. Nếu chậm trễ, doanh nghiệp sẽ bỏ lỡ cơ hội thương mại hóa nỗ lực giảm phát thải và thu hút dòng vốn quốc tế.

Một hướng đi mang tính “nhảy vọt” là phát triển cụm công nghiệp sạch ven biển, tận dụng tiềm năng gió và 3.260 km bờ biển. Các khu công nghiệp sinh thái, tuần hoàn sẽ giúp tối ưu tài nguyên, biến chất thải thành đầu vào sản xuất, vừa tạo hiệu quả kinh tế, vừa giảm phát thải.

Theo ước tính, mô hình này có thể mang lại 15 tỷ USD giá trị gia tăng và hơn 100.000 việc làm mới đến năm 2030, góp phần chuyển dịch tăng trưởng ở các địa phương ven biển, đặc biệt những nơi từng phụ thuộc vào dầu khí.

“Kinh tế xanh không chỉ là một loại hình kinh tế mới, mà còn là động lực tăng trưởng có thể thay đổi cuộc chơi của Việt Nam”, TS. Bùi Thanh Minh nhấn mạnh.

Trong giai đoạn quyết định này, Việt Nam chỉ có hai lựa chọn: chủ động chuyển đổi để bứt phá, hoặc chậm trễ và đối diện nguy cơ tụt hậu. Với nền tảng chính sách ngày càng hoàn thiện, cộng đồng doanh nghiệp năng động và sự đồng hành quốc tế, kinh tế xanh hoàn toàn có thể trở thành đòn bẩy đưa Việt Nam tới mục tiêu kép: tăng trưởng nhanh, bền vững và Net Zero vào năm 2050.