“Cởi trói” thể chế - Khơi thông động lực tăng trưởng mới cho nền kinh tế Việt Nam
Nửa chặng đường thực hiện Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội 2021 - 2030 đã khép lại với nhiều dấu ấn phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch và các “cơn gió ngược” toàn cầu.

Trong bối cảnh Việt Nam chuẩn bị bước vào giai đoạn phát triển mới với góp ý Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, phóng viên Tạp chí Kinh tế - Tài chính đã có cuộc trao đổi với TS. Nguyễn Quốc Việt – Chuyên gia Chính sách công (Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội), về triển vọng tăng trưởng, thách thức thể chế và những đột phá chiến lược cho mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam.
Phóng viên: Chúng ta đã đi qua một nửa chặng đường trong thực hiện Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030. Ông đánh giá như thế nào về bức tranh nền kinh tế Việt Nam giai đoạn 2021- 2025?
TS. Nguyễn Quốc Việt: Giai đoạn 2021 - 2025 là một chặng đường đầy thách thức đối với kinh tế Việt Nam, khi chúng ta phải đối mặt với cú sốc chưa từng có từ đại dịch Covid-19, xung đột địa chính trị leo thang, đứt gãy chuỗi cung ứng và áp lực chi phí đầu vào tăng mạnh. Trong bối cảnh hội nhập sâu rộng, các “cơn gió ngược” này đã tác động sâu rộng đến mọi lĩnh vực của nền kinh tế.
Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đạt được nhiều thành tựu đáng ghi nhận.
Thứ nhất, dù chịu ảnh hưởng nặng nề, nền kinh tế vẫn duy trì đà tăng trưởng, phục hồi mạnh mẽ sau đại dịch. Sau mức tăng khiêm tốn 2,56% năm 2021, kinh tế đã phục hồi mạnh trong các năm 2022 - 2023; hai năm gần đây, đà và triển vọng tăng trưởng quay trở lại mức trước đại dịch, trong đó năm 2025 ước tăng GDP ở mức ấn tượng trên 8%.
Thứ hai, tăng trưởng của Việt Nam vẫn nổi bật so với khu vực, đồng thời giữ vững ổn định vĩ mô. Điều đó thể hiện qua việc kiểm soát lạm phát, cân đối thu – chi ngân sách đảm bảo cân đối lớn của nền kinh tế; đặc biệt là duy trì ngưỡng nợ công ở mức thấp và bảo đảm an toàn. Theo Bộ Tài chính, giữa năm 2025 nợ công ước khoảng 37% GDP- cách xa ngưỡng an toàn 60% GDP và tiếp nối thành quả kiểm soát nợ công dưới 65% giai đoạn trước.
Thứ ba, các động lực chủ yếu của nền kinh tế duy trì được đà tăng trưởng ổn định, xuất khẩu và thương mại quốc tế được đảm bảo với xuất siêu liên tục nhiều năm. Đồng thời, Việt Nam cũng tiếp tục thu hút đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân, cũng như khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
Thứ tư, trong giai đoạn 2021 - 2025, chúng ta đã xây dựng được chính sách tài khóa vượt ra khỏi vai trò ổn định ngắn hạn để trở thành đòn bẩy chiến lược trong dài hạn. Trong đó, chính sách tài khoá tập trung vào các biện pháp như miễn, giảm, gia hạn thuế phí để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân; triển khai các gói kích thích theo hướng phản chu kỳ, chủ động và linh hoạt; vừa ứng phó ngắn hạn vừa phục vụ mục tiêu dài hạn. Chính sách tài khóa vì vậy trở thành trụ đỡ chính trong bối cảnh các động lực khác còn hạn chế.
Thứ năm, chúng ta đã xây dựng và gia tăng được niềm tin vào triển vọng phát triển của nền kinh tế và của các đất nước trên cơ sở đẩy mạnh cải cách thể chế, cải cách hành chính và tổ chức bộ máy nhà nước, thể hiện những bước đi quyết liệt, rõ nét đã khơi dậy khát vọng phát triển trong kỷ nguyên mới.
Phóng viên: Ở góc độ kinh tế - tài chính, dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV được đánh giá là định hình phát triển giai đoạn đến 2030, tầm nhìn 2045, đồng thời mở ra cơ hội xây dựng nền kinh tế hiện đại, minh bạch, ổn định và cạnh tranh toàn cầu. Ông nhìn nhận vấn đề này như thế nào?
TS. Nguyễn Quốc Việt: Theo tôi, để xây dựng nền kinh tế hiện đại và có khả năng cạnh tranh toàn cầu, điều cốt lõi là phải có một “bộ khung thể chế” vững chắc - đó là nền tảng của một nền kinh tế thị trường hiện đại, hiệu quả, minh bạch, dựa trên vai trò kiến tạo của Nhà nước. Thể chế phải vừa dẫn dắt đổi mới mô hình tăng trưởng, vừa bảo đảm hành lang cho “con tàu kinh tế” vận hành nhanh, an toàn và hiệu quả. Cải cách thể chế vì thế không chỉ nhằm đảm bảo an toàn mà phải hướng tới tạo động lực phát triển nhanh và bền vững. Thể chế cần được thiết kế như một “sợi dây neo” -vừa giúp giữ thăng bằng, vừa tạo đà để con thuyền bứt phá.
Cùng với đó, để bứt phá, nền kinh tế cần thiết kế cho con tàu kinh tế ấy “cỗ máy mới” - tức là động lực mới thay thế mô hình tăng trưởng truyền thống dựa quá nhiều vào vốn và lao động giá rẻ. Trong đó, đặt mục tiêu là nâng cao năng suất, hiệu quả sử dụng vốn (giảm hệ số ICOR xuống một nửa so với hiện nay), qua đó tránh bẫy thu nhập trung bình.
Bên cạnh đó, 3 động cơ chính để chúng ta có thể “vươn ra biển, đón sóng lớn” là động cơ khu vực kinh tế khu vực tư nhân, khu vực kinh tế nước ngoài và doanh nghiệp nhà nước phải được tận dụng tối đa. Trong đó, coi động cơ đến từ khu vực kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất.
Đồng thời, chúng ta cần dựa vào dựa vào chuyển đổi số, khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Đây chính là “đột phá của đột phá” được nhấn mạnh trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng, cũng như trong các Nghị quyết Trung ương gần đây, như Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia hay Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Tôi cho rằng việc triển khai được các Nghị quyết một cách cụ thể, thực chất, lấy hiệu quả hàng đầu thì sẽ giúp chúng ta sẽ tạo ra được nền kinh tế hiện đại, minh bạch, ổn định có khả năng cạnh tranh toàn cầu trong giai đoạn mới.
Phóng viên: Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng được thống nhất với định hướng xác định mô hình tăng trưởng mới mở ra động lực mới để Việt Nam bứt phá. Theo ông đâu là những thách thức đối với Việt Nam khi triển khai mô hình tăng trưởng mới?
TS.Nguyễn Quốc Việt: Với tư cách là chuyên gia về chính sách công thì tôi cho rằng, thách thức lớn nhất vẫn là rào cản về mặt thể chế và vấn đề thực thi chính sách. Hiện nay, vẫn tồn tại những “sợi dây vô hình” - là các ràng buộc về thể chế, quy định, quy trình - Tuy có tác dụng giữ cho hệ thống ổn định, nhưng lại đang vô tình kìm hãm động lực phát triển. Sợi dây này không chỉ “trói” người dân và doanh nghiệp, mà còn đang trói buộc cả khu vực công, làm giảm hiệu quả thực thi dù chủ trương, chỉ đạo của Đảng, Chính phủ, cơ quan quản lý, các cấp chính quyền đã bao quát, đầy đủ, trúng và đúng. Vì vậy, nếu không tháo gỡ, con thuyền khó tăng tốc, thậm chí mắc kẹt trong “vùng an toàn” của chính mình.
Thách thức thứ hai là khoảng cách giữa kỳ vọng đổi mới mô hình tăng trưởng với thực trạng năng lực cạnh tranh, đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực chưa có đột phá trong khi yêu cầu chuyển dịch cơ cấu ngày càng cao, cùng với tốc độ già hóa dân số diễn ra nhanh chóng. Đồng thời, khoảng cách giữa khối FDI và doanh nghiệp nội địa vẫn lớn; chuỗi xuất khẩu phụ thuộc nhiều vào nguồn cung bên ngoài, giá trị gia tăng và tỷ lệ nội địa hóa còn thấp, làm tăng nguy cơ mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình.
Ngoài ra, các thách thức mới nổi như biến đổi khí hậu, an ninh năng lượng và hạ tầng năng lượng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới kỳ vọng tăng trưởng.
Phóng viên: Từ những kết quả đã đạt được, thách thức đặt ra, vậy theo ông, đâu là giải pháp trọng tâm để Việt Nam triển khai thành công mô hình tăng trưởng mới này trong giai đoạn tiếp theo để đạt hai mục tiêu 100 năm mà Đảng ta đã đề ra?
TS. Nguyễn Quốc Việt: Từ những thách thức đã nêu ở trên, theo tôi triển khai thành công mô hình tăng trưởng mới này trong giai đoạn tiếp theo để đạt hai mục tiêu 100 năm mà Đảng ta đề ra, trước hết, chúng ta cần tiếp tục gỡ các nút thắt trong thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh.
Trong đó, hiện thực hóa khẩu hiệu “hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường hiện đại, minh bạch” bằng cải cách hành chính quyết liệt; triển khai các Nghị quyết của Bộ Chính trị gồm Nghị quyết số 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết 59-NQ/TW về Hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân với các kịch bản chi tiết, có thước đo hiệu quả thực chất. Đồng thời, lấy doanh nghiệp làm trung tâm của cải cách thể chế, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số.
Thứ hai, chúng ta cần tiếp tục rà soát, thống nhất và hợp nhất các văn bản quy phạm pháp luật. Theo đó, mỗi vấn đề về thực thi chính sách chỉ thống nhất trong một văn bản quy phạm, tránh chồng chéo, dễ hiểu, dễ thực thi đối với cả cơ quan hành chính, người dân và doanh nghiệp.
Thứ ba, cần rà soát lại các “khoảng trống” về pháp lý. Trong đó, chủ động hoàn thiện công cụ thể chế để người dân và doanh nghiệp có hành lang pháp lý rõ ràng trong bối cảnh thay đổi nhanh; Nhà nước đóng vai trò kiến tạo, tạo môi trường cho đột phá mô hình tăng trưởng.
Thứ tư, ở góc độ tài chính, chúng ta cần tiếp tục nâng hiệu quả chính sách tài khóa và đầu tư công. Hiệu quả về đầu tư công không chỉ đánh giá dựa trên kết quả giải ngân ngân vốn đầu tư công như giai đoạn trước, mà phải đánh giá được hiệu quả sử dụng nguồn vốn cũng như hiệu quả và tác động kinh tế -xã hội của cơ sở hạ tầng, tài sản công là kết quả hình thành từ quá trình đầu tư công đó. Từ đó, cần đúc rút kinh nghiệm để xây dựng những ưu tiên mang tính chiến lược, trọng điểm trong đầu tư công để chúng thực sự trở thành động lực dẫn dắt, thu hút đầu tư nước ngoài, cũng như đầu tư tư nhân.
Thứ năm, mặc dù chúng ta đề cao vai trò động lực của khu vực kinh tế tư nhân tuy nhiên doanh nghiệp nhà nước, khu vực kinh tế nhà nước vẫn là một trong những động lực then chốt trong tăng trưởng kinh tế. Và để động lực này phát huy hiệu quả, thì chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước. Xác lập chương trình tái cơ cấu rõ ràng để nâng hiệu quả đầu tư của khu vực doanh nghiệp Nhà nước là một động lực then chốt song hành với khu vực tư nhân.
Có thể nói, giai đoạn nền kinh tế Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình đòi hỏi một sự quyết tâm cải cách mạnh mẽ và một tầm nhìn chiến lược vượt trội. Biến chính sách tài khóa thành một công cụ sắc bén, hiệu quả và kiến tạo không chỉ là một yêu cầu về mặt kinh tế, mà còn là một mệnh lệnh chính trị để đưa Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình, vững bước trên con đường hiện thực hóa khát vọng phát triển thịnh vượng và bền vững.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!

















