Định vị giai đoạn chuyển đổi: Từ thoát nghèo sang mô hình tăng trưởng dựa trên sáng tạo

Hoàng Minh

Việt Nam bước vào thời điểm bản lề, chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa trên lợi thế chi phí sang chiến lược làm giàu dựa trên đổi mới sáng tạo, hoàn thiện thể chế và nâng cao chất lượng nguồn lực.

Nhiều hộ dân thoát nghèo, làm giàu từ mô hình kinh tế bền vững.
Nhiều hộ dân thoát nghèo, làm giàu từ mô hình kinh tế bền vững.

Tái cấu trúc tư duy phát triển trong giai đoạn hậu thoát nghèo

Việt Nam đang bước vào thời điểm bản lề, chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa trên lợi thế chi phí sang chiến lược tạo dựng thịnh vượng dựa trên đổi mới sáng tạo, hoàn thiện thể chế và nâng cao chất lượng nguồn lực.

Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân của Bộ Chính trị xác định khu vực kinh tế tư nhân là một trong những động lực trọng yếu thúc đẩy tăng trưởng, đặc biệt trong đổi mới công nghệ, gia tăng hàm lượng giá trị và tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Đây là bước chuyển quan trọng trong tư duy phát triển, đánh dấu tiến trình hướng tới nền kinh tế có sức cạnh tranh cao, dựa trên tri thức và năng lực sáng tạo nội sinh.

Nhiều thập niên qua, Việt Nam đạt được tăng trưởng nhanh nhờ mô hình thâm dụng lao động, thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển công nghiệp lắp ráp. Chiến lược này giúp hình thành tầng lớp trung lưu, hiện đại hóa cơ cấu kinh tế và cải thiện mức sống.

Tuy nhiên, phương thức tăng trưởng dựa trên chi phí thấp dần thu hẹp dư địa, trong bối cảnh thế giới cạnh tranh mạnh mẽ về công nghệ và năng suất. Kinh nghiệm từ các nền kinh tế Đông Á cho thấy giai đoạn chuyển tiếp từ “thoát nghèo” sang “làm giàu” luôn đòi hỏi cải cách thể chế sâu rộng, nâng cao chất lượng quản trị và thay đổi phương thức phân bổ nguồn lực theo hướng hiệu quả, minh bạch và dựa trên thị trường.

Việt Nam đạt ngưỡng thu nhập trung bình muộn hơn nhiều quốc gia trong khu vực, tạo áp lực lớn lên bộ máy điều hành và yêu cầu nâng cấp năng lực hoạch định chính sách. Một số tồn tại của mô hình tăng trưởng cũ, như tư duy ngắn hạn, thủ tục hành chính phức tạp, tham nhũng và chảy máu chất xám, tiếp tục tạo thách thức.

Theo Bộ Ngoại giao, khoảng 70-80% du học sinh tự túc lựa chọn ở lại nước ngoài sau khi tốt nghiệp, phản ánh sự khác biệt đáng kể về môi trường nghề nghiệp và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Do đó, củng cố niềm tin thị trường, nâng cao tính minh bạch và hiệu quả thực thi chính sách trở thành yếu tố then chốt để thu hút nhân tài, nguồn vốn chất lượng cao và các doanh nghiệp dẫn dắt đổi mới.

Tạo nền tảng để Việt Nam bước vào giai đoạn làm giàu bền vững

Để bước vào giai đoạn phát triển dựa trên tri thức, trọng tâm là dịch chuyển từ gia công, lắp ráp sang sáng tạo sản phẩm và công nghệ có giá trị gia tăng cao, với các trụ cột gồm nghiên cứu - phát triển (R&D), sở hữu trí tuệ, năng lực công nghệ lõi và hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo. Đây là quá trình đòi hỏi nguồn lực lớn, rủi ro cao và thời gian tích lũy dài hạn, nhưng là điều kiện thiết yếu để cải thiện năng suất và nâng cấp vị thế kinh tế.

Những rào cản về thể chế, như thủ tục hành chính, phân mảnh chính sách và hạn chế trong thực thi pháp luật, tiếp tục là điểm nghẽn đối với doanh nghiệp tư nhân và các nhà đầu tư chiến lược. Do đó, cải cách thể chế theo hướng minh bạch, trách nhiệm giải trình, cạnh tranh bình đẳng và hiệu quả điều hành linh hoạt cần được đẩy mạnh.

Định hướng này phù hợp với lộ trình chuyển đổi của các nền kinh tế thành công như Hàn Quốc hay Singapore, vốn dựa trên nguyên tắc xây dựng niềm tin thị trường, kỷ luật kinh tế và huy động được sức mạnh xã hội cho các mục tiêu dài hạn.

Thực thi Nghị quyết số 68-NQ/TW đòi hỏi hành động quyết liệt và đồng bộ: tháo gỡ điểm nghẽn trong cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, nâng cao hiệu quả phân bổ nguồn lực, thúc đẩy thị trường vốn, hoàn thiện môi trường cạnh tranh và khuyến khích đổi mới sáng tạo tư nhân.

Môi trường chính sách nhất quán, quản trị nhà nước hiện đại và hệ sinh thái phát triển doanh nghiệp hiệu quả sẽ tạo nền tảng để Việt Nam bước vào giai đoạn làm giàu bền vững, dựa trên năng lực nội sinh và tinh thần kiến tạo. Thành công của tiến trình này gắn với việc củng cố niềm tin vào thể chế, đề cao tính minh bạch và duy trì cam kết cải cách mạnh mẽ trong dài hạn.