Quản lý Bảo hiểm thất nghiệp ở một số nước và kinh nghiệm cho Việt Nam

Bài 2: Quản lý Bảo hiểm thất nghiệp ở một số nước và hàm ý đối với Việt Nam

Hương Nguyễn

Tại nhiều quốc gia trên thế giới, bảo hiểm thất nghiệp không còn xa lạ với người lao động, từ lâu được luật pháp quy định cụ thể và bắt buộc người lao động, chủ sử dụng lao động phải tham gia.

Người lao động đến Trung tâm dịch vụ việc làm trong các phiên giao dịch việc làm để làm thủ tục trợ cấp thất nghiệp và tư vấn giới thiệu việc làm
Người lao động đến Trung tâm dịch vụ việc làm trong các phiên giao dịch việc làm để làm thủ tục trợ cấp thất nghiệp và tư vấn giới thiệu việc làm

Qua kinh nghiệm thực tiễn triển khai tại các quốc gia đi trước sẽ gợi mở những giải pháp cho Việt Nam đẩy mạnh phát triển loại hình bảo hiểm này.

Thứ nhất, chính sách BHTN là một bộ phận quan trọng của chính sách thị trường lao động, vì vậy nó cần được đặt trong khuôn khổ của chính sách thị trường lao động. Trên cơ sở đó, các quyền lợi của BHTN phải góp phần vào việc nâng cao tình trạng việc làm và cải thiện thường xuyên cơ cấu việc làm trên thị trường lao động cũng như cần loại bỏ được các nguyên nhân gây nên thất nghiệp hoặc rút ngắn thời gian thất nghiệp và xa hơn là phải đạt được mục tiêu về việc làm cũng như các mục tiêu về kinh tế, xã hội của nhà nước. Là công cụ của chính sách thị trường lao động, chính sách BHTN cần phải tác động cả về phía cung và phía cầu nhằm tác động trực tiếp đến việc giảm thất nghiệp trên thị trường lao động, giúp cho người lao động sớm tái hòa nhập vào đời sống lao động với việc làm mới hoặc nơi làm việc mới. Đồng thời các quyền lợi của chính sách BHTN cũng phải khuyến khích doanh nghiệp tiếp nhận và giữ người lao động làm việc dài hạn.

Thứ hai, cần phải quản lý chặt chẽ nguồn thu của quỹ BHTN thông qua việc xác định đúng đối tượng tham gia BHTN, thu đóng góp BHTN đầy đủ, kịp thời theo đúng quy định của pháp luật, hạn chế thất thoát nguồn thu vào quỹ BHTN. Đồng thời phải quản lý chặt chẽ quá trình chi trả chế độ BHTN thông qua việc xác định đúng đối tượng thụ hưởng, mức hưởng và thời gian hưởng chính xác, chi trả chế độ đầy đủ, kịp thời đúng quy định của pháp luật. Trên cơ sở đó, thực hiện cân đối thu - chi quỹ BHTN định kỳ hằng năm, kiểm soát phát sinh tăng, giảm của quỹ BHTN và đưa ra những dự báo trong trung hạn, dài hạn để từ đó đưa ra những điều chỉnh, sửa đổi chính sách phù hợp, đảm bảo quyền lợi của người lao động cả trước và sau khi thất nghiệp, góp phần vào đảm bảo ASXH cho quốc gia.

Thứ ba, tổ chức quản lý BHTN cần đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng cơ chế tài chính sao cho hạn chế và khắc phục được ảnh hưởng của các nhân tố từ môi trường kinh tế, giảm thiểu được sự gia tăng thất nghiệp, lạm phát không thể ảnh hưởng tới quỹ BHTN cũng như việc chi trả các chế độ. Như vậy, sẽ chủ động hơn trong việc quản lý quỹ BHTN. Đặc biệt, cần nghiên cứu, áp dụng và triển khai hiệu quả các chính sách thị trường lao động chủ động do hiện nay Quỹ BHTN ở Việt Nam chủ yếu mới chỉ thực hiện chi trả trợ cấp BHTN, mang tính thụ động, chưa có những chính sách thị trường lao động chủ động trong sử dụng Quỹ BHTN dẫn đến Quỹ BHTN thặng dư qua các năm. Theo đó, cần quy định rõ trong chính sách pháp luật về kết dư quỹ BHTN.

Thứ tư, trên thực tế, thị trường lao động luôn có sự biến động về các yếu tố kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn, vì vậy chính sách BHTN cần phải được điều chỉnh, sửa đổi bổ sung cho phù hợp với sự phát triển của thị trường lao động ở mỗi quốc gia, đặc biệt chú trọng đến mức đóng góp và mở rộng dần các quyền lợi nhằm tác động đồng bộ đến cả cung và cầu trên thị trường lao đông. Ngoài việc thống nhất và cụ thể hóa các chính sách pháp luật về BHTN, Việt Nam cần chú trọng đến tính nghiêm minh của chính sách, pháp luật đã ban hành thông qua việc thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực thi chính sách cũng như chấp hành chính sách pháp luật về BHTN của đối tượng tham gia, thụ hưởng chế độ. Mặt khác, hoạt động tuyên truyền, phổ biến chính sách pháp luật cũng cần phải được quan tâm đúng mực, thực hiện phong phú, đa dạng các hoạt động tuyên truyền, phổ biến chính sách đến đối tượng tham gia để người tham gia hiểu và chấp hành chính sách, pháp luật.

Thứ năm, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, xây dựng quy trình thực hiện thống nhất, tập trung để kiểm soát chặt chẽ từ đối tượng tham gia đến các đối tượng thụ hưởng chính sách BHTN. Đặc biệt là việc thực hiện chi trả các chế độ về chính sách thị trường lao động hiện nay cơ quan BHXH thực hiện chi trả kinh phí còn hoạt động đào tạo, nâng cao tay nghề, giới thiệu việc làm do tổ chức dịch vụ việc làm đảm nhiệm. Từ đó, giảm thiểu tối đa thời gian, chi phí đi lại và thủ tục khi giải quyết các chế độ BHTN của người hưởng chế độ BHTN./.