Mô hình điều phối nào cho đô thị vùng tích hợp đầu tiên của Việt Nam?
Nhiều mô hình tham chiếu quốc tế được gợi mở, đề xuất các giải pháp tổ chức và điều phối chức năng phát triển tích hợp, phù hợp với mô hình chính quyền hai cấp tại TP. Hồ Chí Minh mới.

Đô thị vùng tích hợp đầu tiên của Việt Nam
Tại Hội thảo Quốc tế “Mô hình điều phối – Phát triển tích hợp và cơ chế vận hành cho TP. Hồ Chí Minh mới” do Viện Nghiên cứu Kinh tế - Xã hội, Trường Đại học Sài Gòn (RISE) phối hợp cùng Văn phòng đại diện Tổ chức Konrad-Adenauer-Stiftung tại Việt Nam (KAS) tổ chức, các chuyên gia phân tích các thách thức trong vận hành một đô thị đặc biệt sau quá trình sáp nhập đơn vị hành chính. Đồng thời, giới thiệu các mô hình tham chiếu quốc tế, đề xuất các giải pháp tổ chức và điều phối chức năng phát triển tích hợp, phù hợp với mô hình chính quyền hai cấp tại TP. Hồ Chí Minh mới.
Đánh giá về quy mô của TP. Hồ Chí Minh, TS. Nguyễn Thành Phong - Chủ tịch Hội đồng khoa học, Viện nghiên cứu Kinh tế - Xã hội Trường Đại học Sài Gòn cho rằng, sau hợp nhất không gian hành chính và kinh tế, TP. Hồ Chí Minh trở thành đô thị vùng tích hợp đầu tiên của Việt Nam.
Mô hình hai cấp hành chính đánh dấu bước ngoặt lớn: bộ máy được tinh gọn, quyền hạn được mở rộng, nhưng nhiệm vụ điều hành trở nên phức tạp hơn nhiều, vì không gian phát triển của Thành phố giờ đây trải dài từ đô thị trung tâm, khu công nghiệp, đến cảng biển, vùng sinh thái và không gian sáng tạo công nghệ cao.
TP. Hồ Chí Minh hiện không còn là một “đô thị đơn lõi”, mà là một siêu đô thị tích hợp – nơi các hệ thống hạ tầng, logistics, dữ liệu, dịch vụ và cộng đồng vận hành như một cơ thể thống nhất.
TS. Nguyễn Thành Phong cũng cho rằng, mỗi đô thị trong lịch sử đều được định hình bởi một mô hình thể chế. Thể chế không chỉ là khung pháp lý để quản lý, mà còn là nền tảng định hình cách đô thị tổ chức, vận hành và cùng kiến tạo tương lai phát triển của mình.
Đối với TP. Hồ Chí Minh (mới), nhiệm vụ đặt ra hôm nay không chỉ là tái tổ chức không gian hay đầu tư hạ tầng, mà quan trọng hơn là tái cấu trúc phương thức vận hành của chính quyền đô thị trong một bối cảnh hoàn toàn mới, nơi mô hình điều phối và phát triển tích hợp đòi hỏi tư duy hệ thống, minh bạch và linh hoạt hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên, trong khi không gian phát triển đã mở rộng theo logic vùng động lực, tư duy quản lý vẫn mang nặng tính hành chính tuyến tính, phân mảnh theo ngành, theo cấp, theo quy trình. Điều này tạo nên nhiều khoảng trống trong điều hành thực tế.
TS Trần Thế Lưu - Trường Đại học Sài Gòn cho rằng, từ thể chế thiết kế đến thể chế vận hành không nằm ở quyền mà là ở tư duy. Ông đề nghị, đối với TP. Hồ Chí Minh sau sáp nhập cần có cơ chế tháo gỡ được điểm nghẽn trong việc tổ chức lại năng lực điều hành và cơ chế phối hợp. Một mô hình thể chế chỉ thực sự có giá trị khi nó có thể thích ứng, phản hồi và học hỏi trong quá trình vận hành thực tế...
Cần thiết lập mô hình điều phối siêu đô thị đa cực
Chia sẻ tại Hội thảo, ông Đỗ Thiên Anh Tuấn - Giảng viên trường Chính sách công và quản lý Fullright Việt Nam, cho rằng sau khi hợp nhất, TP. Hồ Chí Minh mới trở thành siêu đô thị thống nhất có quy mô và mức độ tích hợp cao nhất cả nước, với ranh giới bao trùm gần như toàn bộ vùng lõi phát triển của khu vực Đông Nam Bộ, chỉ trừ tỉnh Đồng Nai (cũ).
Đây là khu vực tập trung phần lớn các trung tâm tài chính, công nghiệp, logistics, năng lượng và cảng biển chiến lược của Việt Nam, hình thành nên một không gian đô thị liên kết chặt chẽ và năng động bậc nhất cả nước.
Tuy nhiên, sự hợp nhất hành chính không tự động tạo ra một cơ chế quản trị đô thị hiện đại và tích hợp. Dù đã có một chính quyền thống nhất, hệ thống quy hoạch, hạ tầng, đầu tư công và quản lý dữ liệu vẫn đang vận hành theo các chuẩn mực và quy trình phân tán của giai đoạn trước.
Do đó, yêu cầu cấp thiết hiện nay đối với TP. Hồ Chí Minh mới là thiết lập một mô hình điều phối siêu đô thị đa cực, ở đó quy hoạch không gian, hạ tầng, đầu tư công và dịch vụ đô thị được tích hợp trong một hệ thống quản lý và điều hành thống nhất, linh hoạt theo chức năng.
Mô hình này cần được xây dựng trên nền tảng “trục – cực – vệ tinh”, trong đó mỗi cực phát triển được xác định rõ vai trò, nhiệm vụ và cơ chế phối hợp trong tổng thể vận hành chung của Thành phố.
Theo TS. Nguyễn Thành Phong, để hiện thực hóa mô hình, TP. Hồ Chí Minh xác định cần thiết lập khung thể chế điều phối vững chắc dựa trên ba trụ cột chính.
Thứ nhất, thể chế cần được thiết kế như một hệ thống mở, cho phép các chủ thể khác nhau – Nhà nước, doanh nghiệp, viện – trường và người dân – tham gia trực tiếp vào chu trình chính sách. Thành phố không chỉ là nơi thực thi hay cụ thể hóa các quy định do Trung ương ban hành, mà còn là không gian hợp tác chính sách, nơi các sáng kiến có thể được thử nghiệm, đánh giá và điều chỉnh thông qua cơ chế phản hồi liên tục giữa chính quyền, cộng đồng khoa học, doanh nghiệp và người dân. Các công cụ như sandbox chính sách, nền tảng dữ liệu mở hay diễn đàn phản biện chính sách định kỳ chính là biểu hiện cụ thể của một thể chế mở, năng động và thích ứng.
Thứ hai, cơ chế điều phối cần dựa trên dữ liệu tích hợp và không gian thông tin thống nhất. Không thể có một đô thị thông minh hay vùng phát triển tích hợp nếu dữ liệu vẫn bị chia cắt theo đơn vị quản lý. Việc hình thành Trung tâm Điều phối và Dữ liệu vùng đô thị (Urban Data & Coordination Center – UDCC) sẽ là bước then chốt, cho phép điều hành thời gian thực, hỗ trợ ra quyết định dựa trên bằng chứng, giảm xung đột thể chế và tăng hiệu quả quản trị. Khi đó, quản lý không còn là “giấy tờ và quy trình,” mà là dữ liệu, mô hình và minh chứng.
Thứ ba, mô hình điều phối phải đặt con người và tri thức vào trung tâm. Thể chế chỉ có sức sống khi biết học hỏi liên tục từ chính trải nghiệm của mình. TP. Hồ Chí Minh mới cần trở thành một hệ thống học tập thể chế (learning system) – nơi mỗi thí điểm chính sách, dù thành công hay chưa, đều cung cấp dữ liệu và bài học để điều chỉnh và hoàn thiện mô hình vận hành. Năng lực học hỏi đó chính là thước đo của một đô thị hiện đại và cũng là bảo chứng cho sự bền vững của quá trình phát triển.

















