Tạo cơ sở triển khai các dự án tín chỉ carbon nội địa
Theo Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng, trong năm 2025, dự kiến Chính phủ sẽ ban hành 3 nghị định liên quan đến vận hành thị trường carbon trong nước. Chính phủ cũng tiếp tục nghiên cứu xây dựng các chính sách liên quan đến giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; công bố các tiêu chuẩn, phương pháp tạo tín chỉ carbon để tạo cơ sở triển khai các dự án tín chỉ carbon nội địa.

Động lực cho kinh tế xanh
Trong phiên thảo luận của Quốc hội về kết quả giám sát việc thực hiện Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 ngày 28/10, các đại biểu Quốc hội nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hoàn thiện cơ chế thị trường carbon – một công cụ kinh tế then chốt trong lộ trình thực hiện cam kết phát thải ròng bằng “0” vào năm 2050.
Đại biểu Hà Hồng Hạnh - Khánh Hòa cho rằng, Việt Nam có tiềm năng lớn trong hấp thụ và giảm phát thải, đặc biệt trong lĩnh vực năng lượng tái tạo, nông nghiệp, lâm nghiệp và công nghiệp chế biến. Riêng rừng tự nhiên và rừng trồng có thể cung cấp hàng chục triệu tín chỉ carbon mỗi năm, tương đương hàng trăm triệu USD khi được định giá và giao dịch hợp pháp.
Để thúc đẩy thị trường tín chỉ carbon phát triển, đại biểu đề nghị sớm hoàn thiện khung pháp lý, xây dựng hệ thống dữ liệu quốc gia về phát thải khí nhà kính, đầu tư công nghệ giám sát, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi. Việt Nam cũng cần tăng cường hợp tác quốc tế, mở rộng kết nối thị trường carbon khu vực và toàn cầu, đồng thời đẩy mạnh truyền thông để cộng đồng nhận thức rõ hơn về lợi ích kinh tế của giảm phát thải.
Trao đổi về nội dung này, đại biểu Nguyễn Thị Lan Anh - Lào Cai nhấn mạnh, thị trường tín chỉ carbon không chỉ giúp thực hiện cam kết giảm phát thải khí nhà kính mà còn mở ra nguồn thu bền vững, góp phần cải thiện sinh kế cộng đồng. Theo Ngân hàng Thế giới, quy mô thị trường carbon toàn cầu có thể đạt 250 tỷ USD vào năm 2030. Với tỷ lệ che phủ rừng hơn 54%, đặc biệt tại các tỉnh trung du và miền núi như Tuyên Quang, Lạng Sơn, Lào Cai, Việt Nam sở hữu “bể chứa CO₂” khổng lồ có thể mang lại hàng triệu USD mỗi năm nếu được khai thác hiệu quả qua thị trường carbon.
Để thị trường tín chỉ carbon trở thành động lực cho kinh tế xanh, đại biểu Lan Anh đề nghị sớm hoàn thiện thể chế, sửa đổi Luật Lâm nghiệp và Luật Bảo vệ môi trường theo hướng bổ sung quy định về nhà đầu tư tín chỉ carbon, cơ chế đấu giá hạn ngạch phát thải và chính sách thuế, phí liên quan. Đồng thời, cần đẩy nhanh vận hành sàn giao dịch carbon quốc gia, bảo đảm minh bạch, phân bổ lợi ích công bằng, ưu tiên các địa phương có tỷ lệ che phủ rừng cao.
Đại biểu cũng đề xuất đầu tư công nghệ giám sát hiện đại, ứng dụng AI, vệ tinh, blockchain trong quản lý tín chỉ carbon và tăng cường hợp tác quốc tế, nhất là theo cơ chế của Thỏa thuận Paris, nhằm mở rộng thị trường và nâng cao giá trị tín chỉ carbon Việt Nam.
Thiết lập hệ thống báo cáo kiểm kê khí nhà kính trực tuyến
Làm rõ các nội dung đại biểu Quốc hội nêu, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Trần Đức Thắng cho hay, đến nay đã cơ bản hình thành hành lang pháp lý cần thiết để quản lý, vận hành thị trường carbon trong nước. Ngay trong năm 2025, dự kiến Chính phủ sẽ ban hành 3 nghị định liên quan đến vấn đề này. Chính phủ cũng tiếp tục nghiên cứu xây dựng các chính sách về thuế, phí, lệ phí liên quan đến giao dịch hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon; công bố các tiêu chuẩn tín chỉ carbon, phương pháp tạo tín chỉ carbon để tạo cơ sở cho các doanh nghiệp đăng ký, triển khai các dự án tín chỉ carbon nội địa.
Theo Bộ trưởng, trong thời gian tới, Chính phủ, Bộ Nông nghiệp Môi trường xác định đột phá về thể chế, chính sách pháp luật, trong đó trọng tâm là kinh tế hóa môi trường, tạo động lực cho phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế carbon thấp. Trong năm 2026 sẽ tiếp tục đánh giá để sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, tập trung vào các vấn đề như phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn, tiếp tục đơn giản hóa, cải cách thủ tục hành chính, tháo gỡ các điểm nghẽn về đầu tư...
Cùng với đó, tiếp tục đột phá về khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, hoàn thiện hạ tầng và công nghệ giám sát môi trường. Trọng tâm là đầu tư xây dựng, hiện đại hóa các hệ thống quan trắc, cảnh báo môi trường tự động, liên tục và tích hợp dữ liệu số hóa, đảm bảo tính minh bạch, kịp thời trong cung cấp thông tin, phục vụ quản lý và giám sát của cộng đồng.
Bộ trưởng cho biết sẽ vận hành hệ thống đăng ký quốc gia về hạn ngạch phát thải khí nhà kính và tín chỉ carbon, kết nối với quốc tế, thiết lập hệ thống báo cáo kiểm kê khí nhà kính trực tuyến phục vụ cho doanh nghiệp. Đồng thời, hoàn thành vận hành hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu môi trường quốc gia, bảo đảm tích hợp, kết nối, liên thông với cơ sở dữ liệu quốc gia và chia sẻ từ trung ương cho đến xã theo thời gian thực.

















