Cần mở rộng thuế, phí môi trường với nguồn gây ô nhiễm, chất thải khó tái chế
Để các cơ chế, chính sách được tiếp tục hoàn thiện theo hướng kinh tế hóa công tác bảo vệ môi trường, các đại biểu Quốc hội đề nghị xem xét điều chỉnh mức thuế, phí phản ánh chính xác chi phí môi trường, mở rộng áp dụng đối với những hoạt động gây ô nhiễm chưa được kiểm soát, chất thải khó có khả năng tái chế.

Kinh tế hóa bảo vệ môi trường
Ngày 28/10, thảo luận về kết quả giám sát chuyên đề “Việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường kể từ khi Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 có hiệu lực thi hành”, các đại biểu Quốc hội cho rằng cả nước đã đạt được nhiều thành tựu nổi bật trong công tác bảo vệ môi trường.
Quan tâm đến việc áp dụng các công cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường nhằm hướng tới mục tiêu kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, đại biểu Trịnh Thị Tú Anh (Đoàn Lâm Đồng) nhận định, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 là bước tiến lớn, chuyển từ quản lý hành chính sang quản lý dựa trên các công cụ kinh tế linh hoạt. Lần đầu tiên, các công cụ này được quy định trong Mục 1, Chương XI của Luật.
Kể từ khi luật có hiệu lực, Chính phủ đã ban hành Quyết định phát triển kinh tế tuần hoàn và Quyết định xác định tiêu chí xanh cho các dự án đầu tư. Những công cụ này cụ thể hóa nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải chi trả” và “người hưởng lợi phải đóng góp tài chính”. Đây là nền tảng pháp lý quan trọng để chuyển đổi mô hình tăng trưởng, khuyến khích sản xuất, tiêu dùng xanh và thúc đẩy kinh tế tuần hoàn, nơi chất thải của quá trình này trở thành nguyên liệu cho quá trình khác.
Theo đại biểu, các công cụ tài chính xanh như tín dụng xanh, trái phiếu xanh đã được triển khai tại một số địa phương, trong đó có thí điểm phát hành trái phiếu xanh và doanh nghiệp bước đầu tiếp cận thị trường trái phiếu quốc tế bền vững. Thuế và phí bảo vệ môi trường mang lại nguồn thu đáng kể cho ngân sách, đồng thời góp phần thay đổi nhận thức và hành vi của doanh nghiệp, người dân.
Để tiếp tục hoàn thiện chính sách theo hướng kinh tế hóa mạnh mẽ hơn, đại biểu Tú Anh đề nghị Chính phủ đồng bộ hóa việc định giá tài nguyên và dịch vụ hệ sinh thái, xác định đúng và đủ chi phí môi trường trong các hoạt động kinh tế. Đồng thời, cần nâng cao hiệu quả các công cụ thuế, phí môi trường hiện có; xem xét điều chỉnh mức thuế, phí phản ánh chính xác chi phí môi trường và mở rộng áp dụng với những hoạt động gây ô nhiễm chưa được kiểm soát.
Bên cạnh việc áp dụng thuế, phí, Nhà nước cần tăng cường cơ chế khuyến khích cho các hoạt động kinh tế xanh, tuần hoàn, như hỗ trợ lãi suất tín dụng xanh, bảo lãnh vay vốn cho doanh nghiệp đầu tư công nghệ sạch, mở rộng phát hành trái phiếu xanh để huy động vốn xã hội. Đồng thời, triển khai hiệu quả danh mục dự án xanh đã ban hành, gắn với tiêu chí môi trường rõ ràng để các bộ, ngành, địa phương thống nhất áp dụng khi huy động vốn và phê duyệt dự án. Đại biểu cũng đề nghị đẩy mạnh hợp tác quốc tế, học hỏi kinh nghiệm về tài chính xanh và công nghệ môi trường từ các nước phát triển, tham gia các quỹ khu vực xanh ASEAN để mở rộng nguồn vốn.
Ràng buộc trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu
Cùng quan điểm, đại biểu Trần Thị Thanh Hương (Đoàn An Giang) đề nghị tiếp tục rà soát, hoàn thiện hệ thống thể chế, chính sách liên quan đến thuế, phí, lệ phí, kèm theo chế tài nghiêm khắc, đủ sức răn đe. Các địa phương cần rà soát lại quy hoạch bảo vệ môi trường, đặc biệt là các khu tập kết, xử lý rác nhằm giảm tình trạng quá tải, tránh việc nơi xử lý, nơi khác lại phải gánh chịu hệ quả.
Bên cạnh việc nghiên cứu bổ sung các đối tượng chịu thuế, phí với chất thải khó tái chế, đại biểu cho rằng cần ràng buộc trách nhiệm của nhà sản xuất, nhập khẩu trong việc thu hồi, tái chế bao bì, đặc biệt là các loại chất thải nguy hại như vỏ bao bì hóa chất bảo vệ thực vật. Điều này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả thu gom, xử lý chất thải và giảm tác động xấu tới môi trường nông nghiệp.
Cho rằng đầu tư hạ tầng đồng bộ, công nghệ hiện đại là yêu cầu cấp thiết, đại biểu nhấn mạnh mỗi địa phương có đặc thù riêng, chủng loại rác thải khác nhau nên không thể áp dụng một mô hình xử lý chung. Vì vậy, cần nghiên cứu kỹ các mô hình, ban hành quy chuẩn kỹ thuật phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương trong chuyển giao công nghệ, tránh lãng phí đầu tư trong bối cảnh nguồn lực còn hạn chế.

















