Chủ động phòng ngừa, kiểm soát tác động của biến đổi khí hậu
Báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường (BVMT) kể từ khi Luật BVMT năm 2020 có hiệu lực đã kiến nghị một số nhiệm vụ, giải pháp đến năm 2030 nhằm phòng ngừa, kiểm soát, ứng phó với sự cố môi trường và tác động của biến đổi khí hậu.

Sáng 28/10, trong khuôn khổ chương trình kỳ họp Quốc hội, Tổng Thư ký Quốc hội, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Lê Quang Mạnh đã trình bày Báo cáo kết quả giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT kể từ khi Luật BVMT năm 2020 có hiệu lực.
Ngoài việc đánh giá những kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế và kiến nghị một số nhiệm vụ, giải pháp cấp bách cần hoàn thành trước cuối năm 2026, Báo cáo của Đoàn giám sát cũng đã kiến nghị một số nhiệm vụ, giải pháp trung và dài hạn đến năm 2030 liên quan đến công tác ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu.
Theo đó, Đoàn giám sát kiến nghị cần phòng ngừa, kiểm soát và ngăn chặn từ sớm, từ xa các nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường; dự báo sớm tác động của biến đổi khí hậu.
Cụ thể, nâng cao năng lực quan trắc, dự báo, cảnh báo sớm về môi trường và tác động của biến đổi khí hậu nhằm chủ động phòng ngừa, kiểm soát, khắc phục ô nhiễm, cải thiện chất lượng môi trường, bảo vệ khu vực có yếu tố nhạy cảm môi trường, hạn chế tác động xấu đối với môi trường và sức khỏe con người; kiểm soát lượng phát thải khí nhà kính, cung cấp dữ liệu kịp thời cho hoạch định chính sách. Thực hiện mục tiêu cam kết trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định, đến năm 2030 giảm 15,8% tổng lượng phát thải khí nhà kính so với kịch bản phát triển thông thường.
Kiểm soát chặt chẽ yêu cầu về môi trường đối với các dự án đầu tư; nâng cao chất lượng hoạt động thẩm định, đánh giá công nghệ sản xuất để kiểm soát, ngăn chặn hiệu quả việc nhập khẩu công nghệ cũ, lạc hậu, có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường vào Việt Nam; giám sát chặt chẽ, phòng ngừa đối với cơ sở thuộc loại hình có nguy cơ gây ô nhiễm, sự cố môi trường cao; cơ sở năng lượng nguyên tử, cơ sở hạt nhân.
Bên cạnh đó, nâng cao vai trò của hoạt động kiểm toán môi trường; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, đấu tranh phòng, chống tội phạm, vi phạm pháp luật về môi trường, tập trung đối với khu công nghiệp, cụm công nghiệp và làng nghề; nâng cao chế tài xử lý, bảo đảm tính răn đe, ngăn ngừa hành vi vi phạm pháp luật về BVMT; tập trung xử lý dứt điểm các vụ khiếu kiện đông người, phức tạp về môi trường ngay từ cơ sở.
Chú trọng thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự nhằm yêu cầu bồi thường thiệt hại về môi trường khi xảy ra sự cố gây ô nhiễm, suy thoái môi trường. Nghiên cứu định hướng, chủ động xây dựng các khu, cụm công nghiệp; di dời các cơ sở sản xuất trong cụm công nghiệp, làng nghề gây ô nhiễm, đặc biệt là tại các cụm công nghiệp, làng nghề xen lẫn với khu dân cư tới địa điểm có quy hoạch phù hợp.
Về hoàn thiện thể chế, chính sách ứng phó với biến đổi khí hậu, Đoàn giám sát kiến nghị nghiên cứu đề xuất và xây dựng Luật Biến đổi khí hậu. Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp lý về trao đổi kết quả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và tín chỉ các-bon với quốc tế. Triển khai phân bổ hạn ngạch phát thải khí nhà kính cho các cơ sở phát thải khí nhà kính, tổ chức vận hành thị trường các-bon trong nước đồng thời với việc triển khai thực hiện cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các-bon. Rà soát, điều chỉnh tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia hạ tầng theo hướng đa mục tiêu, tích hợp, thích ứng với biến đổi khí hậu trong các ngành kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực giao thông vận tải, điện lực, viễn thông.
Đặc biệt, Đoàn giám sát cũng kiến nghị nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về BVMT và ứng phó với biến đổi khí hậu. Theo đó, phát động phong trào toàn dân tham gia BVMT, giảm thiểu phát sinh, phân loại, thu gom, xử lý rác thải; công khai thông tin về môi trường tạo điều kiện cho cộng đồng, người dân tham gia BVMT; huy động sự tham gia của cả hệ thống chính trị, tổ chức xã hội vào công tác BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu; tiếp tục đẩy mạnh và đa dạng hóa các hình thức tuyên truyền, tài liệu tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của người dân, thay đổi hành vi, thói quen, lối sống và chủ động tham gia có trách nhiệm và thân thiện với môi trường; xây dựng các chương trình giáo dục môi trường thiết thực, trực quan trong các cấp học.
Đồng thời, phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên, cộng đồng dân cư trong thực hiện chính sách, pháp luật về BVMT, kịp thời phát hiện và kiến nghị xử lý các vi phạm về môi trường. Phát hiện và nhân rộng các mô hình, điển hình tiên tiến trong BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu; gắn tiêu chí môi trường với các phong trào toàn dân BVMT.

















