Giáo dục nghề nghiệp - lối mở để người dân thoát nghèo trên hành trình dài

Ngọc Linh

Trong Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, dự án số 4 gồm “Phát triển giáo dục nghề nghiệp, việc làm bền vững” được xác định là một dự án riêng biệt với đầu tư lớn, đối tượng rõ ràng.

Người dân tỉnh Đắk Lắk được giáo viên dạy nghề hướng dẫn về lĩnh vực chăn nuôi, thú y.
Người dân tỉnh Đắk Lắk được giáo viên dạy nghề hướng dẫn về lĩnh vực chăn nuôi, thú y.

Giảm nghèo bền vững là một trong những mục tiêu chiến lược của Việt Nam, không chỉ là giảm số lượng hộ nghèo, mà là nâng cao chất lượng sống, giảm thiểu khả năng tái nghèo. Trong đó, giáo dục nghề nghiệp đóng vai trò trọng yếu, giúp trang bị kỹ năng lao động cho người nghèo, tạo đòn bẩy để thay đổi cơ cấu lao động, định hướng phát triển kinh tế địa phương, cải thiện sinh kế, đảm bảo thu nhập lâu dài.

Trong Chương trình Mục tiêu Quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025, dự án số 4 gồm “Phát triển giáo dục nghề nghiệp, việc làm bền vững” được xác định là một dự án riêng biệt với đầu tư lớn, đối tượng rõ ràng. Dự án đặt mục tiêu là phát triển giáo dục nghề nghiệp cả về quy mô và chất lượng đào tạo, hỗ trợ đào tạo nghề cho người nghèo, người dân sinh sống trên địa bàn tỉnh có huyện nghèo, gắn kết chặt chẽ giáo dục nghề nghiệp với tạo việc làm, sinh kế bền vững, tăng thu nhập và nâng cao chất lượng cuộc sống.

Đối tượng thụ hưởng dự án tập trung vào những người học nghề, lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo; người lao động có thu nhập thấp; các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh có huyện nghèo.

Từ nguồn vốn của chương trình, tại các địa phương đã quyết liệt vào cuộc, hỗ trợ cơ sở vật chất, thiết bị, phương tiện đào tạo cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa bàn tỉnh có huyện nghèo; hỗ trợ khởi nghiệp và tạo việc làm trên địa bàn tỉnh có huyện nghèo. Đồng thời phát triển mô hình gắn kết giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp, hợp tác xã trên địa bàn tỉnh có huyện nghèo; đào tạo nghề cho người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người lao động có thu nhập thấp.

Cả nước có gần 177,8 nghìn người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo được hỗ trợ đào tạo kỹ năng nghề
Cả nước có gần 177,8 nghìn người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo được hỗ trợ đào tạo kỹ năng nghề

Kết quả, trong 5 năm qua, cả nước có gần 177,8 nghìn người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo được hỗ trợ đào tạo kỹ năng nghề; 146 cơ sở, được hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ đào tạo. Xây dựng 131 bộ chuẩn về giáo dục nghề nghiệp; 1.981 chương trình, giáo trình, học liệu; đào tạo, bồi dưỡng cho 9.461 lượt nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục nghề nghiệp.

Các nội dung về giáo dục nghề nghiệp được triển khai đã góp phần nâng cao chất lượng đào tạo cho các cơ sở giáo dục nghề nghiệp vùng nghèo, vùng khó khăn về cả quy mô và chất lượng đào tạo; gắn kết chặt chẽ đào tạo với việc làm.

Tuy nhiên, thực tế vẫn còn những rào cản đáng kể. Chất lượng đào tạo, cơ sở vật chất, thiết bị còn hạn chế, nhiều cơ sở dạy nghề vùng nghèo chưa được trang bị thiết bị hiện đại, thiếu giáo viên có trình độ chuyên môn cao, chưa có chương trình học phù hợp với nhu cầu thực tế thị trường lao động. Người dân vùng khó khăn đôi khi chưa biết rõ về cơ hội học nghề, khó tiếp cận thông tin về các lớp, về nhu cầu lao động của doanh nghiệp. Có trường hợp người học sợ “học nghề là thấp kém”, hoặc không thấy lợi ích lâu dài. Chí phí và hỗ trợ từ chương trình thực tế vẫn chưa đáp ứng đủ cho người dân. Một số đối tượng học lớn tuổi, đã có gánh nặng gia đình, đôi khi không thể bỏ công việc đồng áng hoặc chăm sóc gia đình để đi học. Thêm vào đó, việc kết nối giữa đào tạo nghề và doanh nghiệp, thị trường lao động chưa chặt chẽ.

Theo số liệu từ Ban Chỉ đạo Trung ương các chương trình mục tiêu quốc gia, tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều đến cuối năm 2024 còn 1,93%, (tỷ lệ đầu kỳ là 5,2%, bình quân giảm 1,03%), đạt chỉ tiêu Quốc hội, Chính phủ giao giảm từ 1,0-1,5%/năm. Đến năm 2025, có 19 xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo được thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn (đạt 35,18%) vượt mục tiêu Quốc hội, Chính phủ giao.

Tuy nhiên bài toán đặt ra cho giai đoạn mới là chống "tái nghèo", muốn vậy chương trình giáo dục nghề nghiệp, nhất là tại các vùng nghèo, vùng khó khăn, cần phải hiệu quả, thực chất hơn. 

Cần thiết có chính sách phù hợp với đặc thù địa phương thông qua việc xác định rõ ngành nghề phù hợp với môi trường, văn hóa, điều kiện tự nhiên, nguồn lao động của vùng (ví dụ nghề nông, nghề thủ công, nghề chế biến nông sản, du lịch cộng đồng, nghề dịch vụ phù hợp). Nên triển khai học nghề ngắn hạn linh hoạt, linh hoạt về thời gian học để người lớn tuổi, lao động nông nghiệp có thể tham gia.

Đào tạo nghề cần được gắn với thế mạnh địa phương giúp giảm nghèo bền vững
Đào tạo nghề cần được gắn với thế mạnh địa phương giúp giảm nghèo bền vững

Tăng cường hỗ trợ ngân sách cho trường nghề vùng nghèo nhằm mua sắm thiết bị thực hành, cập nhật công nghệ, đảm bảo việc dạy thực hành có chất lượng cao. Một vấn đề khác là cần đào tạo, tuyển dụng giáo viên có năng lực, đặc biệt những người am hiểu vùng và chịu khó về địa bàn khó khăn.

Để tạo kết nối chặt giữa đào tạo nghề và thị trường lao động, các doanh nghiệp, hợp tác xã phải tham gia từ đầu trong việc xây dựng chương trình, xác định nhu cầu lao động để đào tạo nghề đúng nhu cầu. 

Cùng với đó, các chính sách hỗ trợ học viên học nghề cần toàn diện hơn, trợ cấp đủ kinh phí cho học viên đi lại, ăn ở, học liệu, đặc biệt là các học viên từ hộ nghèo, vùng sâu vùng xa. 

Khi các giải pháp trên được triển khai đồng bộ, hoạt động giáo dục nghề nghiệp sẽ phát huy hiệu quả hơn, giúp người dân có việc làm bền vững, tự mình vươn lên và làm chủ cuộc sống của chính mình.