Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi có bước tiến rõ rệt

Lê Thu

Trước đây, khi nhắc đến xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi, nhiều người còn hoài nghi - "soi kính hiển vi cũng chưa thấy đâu", nhưng nay Việt Nam đã có bước tiến rõ rệt.

Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đã có kết quả khởi sắc
Xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đã có kết quả khởi sắc

Ngày 8/10, tại Triển lãm quốc tế chuyên ngành chăn nuôi, thức ăn chăn nuôi và chế biến thịt tại Việt Nam năm 2025, ông Phùng Đức Tiến - Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường chia sẻ, trước đây, khi nhắc đến xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi, nhiều người còn hoài nghi - "soi kính hiển vi cũng chưa thấy đâu". Nhưng chỉ riêng việc bảo đảm nguồn thịt, trứng, sữa cho hơn 100 triệu dân đã là thách thức không nhỏ. Nhưng nay Việt Nam đã có bước tiến rõ rệt.

Thứ trưởng Phùng Đức Tiến cho biết, 9 tháng năm 2025, kim ngạch xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi đạt khoảng 447 triệu USD, tăng 18,6% so với cùng kỳ, và dự kiến đến cuối năm sẽ vượt 600 triệu USD. Riêng xuất khẩu thức ăn chăn nuôi đạt 1,5 tỷ USD.

“Với nền tảng hiện có, những năm tới đây, xuất khẩu sản phẩm chăn nuôi sẽ tiếp tục được thúc đẩy mạnh mẽ”, Thứ trưởng Phùng Đức Tiến nhận định.

Theo báo cáo của Cục Chăn nuôi tại hội thảo về lĩnh vực chăn nuôi vào chiều cùng ngày: Năm 2024, tổng khối lượng sản phẩm chăn nuôi xuất khẩu đạt 343.978,22 tấn, gồm 164.355,46 tấn; trong 8 tháng năm 2025, còn số này đạt 180.001,18 tấn.

Kết quả trên cho thấy, khối lượng xuất khẩu trong 8 tháng 2025 đã vượt qua cả năm 2024, cho thấy xu hướng tăng trưởng tích cực của hoạt động xuất khẩu.

Về thị trường, Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn nhất với tổng khối lượng 168.828,60 tấn, chiếm gần một nửa tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng trưởng ổn định. 

Malaysia đứng thứ hai với 31.681,06 tấn, có xu hướng tăng trưởng tích cực từ 14.625,39 tấn năm 2024 lên 17.055,67 tấn trong 8 tháng 2025.

Thị trường Hoa Kỳ xếp thứ ba về xuất khẩu với 20.386,12 tấn. Tuy nhiên có xu hướng giảm từ 13.105,68 tấn năm 2024 xuống 7.280,44 tấn trong 8 tháng 2025.

Nhóm mặt hàng xuất khẩu chính là nguyên liệu thức ăn chăn nuôi, thủy sản dẫn đầu xuất khẩu với 131.781,43 tấn, gồm 67.754,56 tấn năm 2024 và 64.026,87 tấn trong 8 tháng 2025.

Các nhóm mặt hàng xuất khẩu khác giai đoạn 2021–2025 ghi nhận nhiều biến động trong hoạt động xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi và nông nghiệp của Việt Nam, phản ánh sự thay đổi về nhu cầu thị trường, chính sách thương mại và năng lực sản xuất trong nước.

Đại diện Bộ Nông nghiệp và Môi trường chia sẻ về ngành chăn nuôi tại hội nghị. Ảnh: T.H
Đại diện Bộ Nông nghiệp và Môi trường chia sẻ về ngành chăn nuôi tại hội nghị. Ảnh: T.H

Sữa và sản phẩm sữa xuất khẩu sữa duy trì ổn định với sản lượng năm 2024 đạt 12.055,30 tấn, trong đó Philippines là thị trường tiêu thụ lớn nhất (5.696,26 tấn). So với giai đoạn 2021–2022, sản lượng tăng nhẹ nhờ vào việc mở rộng thị trường ASEAN và cải tiến công nghệ chế biến.

Thức ăn chăn nuôi thành phẩm, năm 2024 ghi nhận sản lượng xuất khẩu đạt 10.519,49 tấn, tăng so với mức trung bình khoảng 8.000–9.000 tấn trong các năm trước. Mỹ là thị trường lớn nhất (5.576,17 tấn), cho thấy nhu cầu ổn định từ các trang trại quy mô lớn tại đây.

Đặc biệt, cám gạo và cám gạo chiết ly là điểm sáng trong xuất khẩu nông sản năm 2025. Sau khi Việt Nam và Trung Quốc ký kết Nghị định thư về xuất khẩu cám gạo ngày 15/4/2025, sản lượng xuất khẩu tăng mạnh. Hiện mỗi tháng Việt Nam xuất khoảng 100.000 tấn, ước tính cả năm đạt 1,0–1,2 triệu tấn, với giá trị khoảng 400–500 triệu USD/năm.

So với giai đoạn 2021–2023, khi sản lượng chỉ dao động quanh mức 300.000–500.000 tấn/năm, đây là bước nhảy vọt đáng chú ý, mở ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu.

Kết quả trên cho thấy sự tăng trưởng ổn định của ngành chăn nuôi Việt Nam, đồng thời khẳng định tiềm năng to lớn trong việc đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Bên cạnh việc cung cấp sản phẩm cho 100 triệu dân, ngành chăn nuôi đang hướng tới mục tiêu giá trị xuất khẩu đạt từ 3 - 4 tỷ USD vào năm 2030.

Để đạt được mục tiêu đầy tham vọng này, toàn ngành đang tích cực đàm phán để mở rộng thị trường xuất khẩu sang Hàn Quốc, Trung Quốc, Singapore, châu Âu, Anh và các nước Trung Đông. Đồng thời, tập trung tăng số lượng doanh nghiệp sản xuất được phép xuất khẩu sang các thị trường đã được mở cửa.