aa

Quản lý nợ công chặt chẽ, an toàn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia

Ảnh 12:05 | 17/07/2022
Trong 10 năm qua, các chỉ tiêu an toàn nợ công tiếp tục được kiểm soát chặt chẽ trong giới hạn an toàn, góp phần đảm bảo an ninh tài chính quốc gia và bồi đắp dư địa chính sách tài khóa. Tuy nhiên, khả năng huy động vốn vay ODA, vay ưu đãi ngày càng giảm, trong khi khả năng hấp thụ vốn của thị trường trong nước còn hạn chế, gây ra áp lực trả nợ của Chính phủ tăng cao, khuôn khổ quản lý nợ nước ngoài của quốc gia không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của nước ta... Đây là những vấn đề cần phải đánh giá, phân tích để đưa ra định hướng quản lý nợ công phù hợp, đảm bảo bền vững nợ công, an ninh tài chính quốc gia, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới.

Kết quả thực hiện Chiến lược nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 - 2020

Giai đoạn 2011 - 2015, tích lũy của nền kinh tế còn thấp, khả năng huy động vốn đầu tư từ các nguồn ngoài ngân sách nhà nước (NSNN) còn hạn chế; kinh tế tăng trưởng thấp hơn dự kiến; nguồn thu NSNN bị ảnh hưởng bởi việc thực hiện các chính sách miễn, giảm thuế.

Để đáp ứng nhu cầu chi NSNN, đặc biệt là chi cho đầu tư phát triển ngày càng tăng, bội chi NSNN đã được điều hành theo hướng linh hoạt. Thực hiện các nghị quyết, quyết định của cấp có thẩm quyền, các chỉ tiêu an toàn nợ giai đoạn 2011 - 2015 đều nằm trong ngưỡng an toàn.

Đến cuối năm 2015, nợ công trong khoảng 61% GDP, nợ Chính phủ khoảng 49,2% GDP và nợ nước ngoài quốc gia khoảng 42% GDP.

Bước sang giai đoạn 2016 - 2020, kinh tế vĩ mô đã đạt được những thành tựu nhất định, nền kinh tế ổn định hơn so với giai đoạn 2011 - 2015, môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện rõ nét. Việc Việt Nam gia nhập nhóm quốc gia thu nhập trung bình thấp là một dấu mốc quan trọng, mở ra nhiều khả năng mới để quản lý nợ chủ động, hiệu quả. Sự phát triển nhanh chóng của thị trường trái phiếu trong nước đem lại cơ hội huy động nợ tương đối dài hạn với chi phí hợp lý...

Quản lý nợ công chặt chẽ, an toàn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia - Ảnh 1

Cũng trong giai đoạn này, thực hiện các giải pháp cơ cấu lại NSNN theo Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội, bội chi NSNN giảm nhanh, bình quân đạt khoảng 3,45% GDP, giảm mạnh so với giai đoạn 2011-2015 là 5,8% GDP, đảm bảo mục tiêu của Chiến lược tài chính đến năm 2020 và Nghị quyết số 07-NQ/TW là đến năm 2020 xuống dưới 4% GDP và mục tiêu không quá 3,9% GDP theo Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội.

Công tác quản lý nợ công đã có nhiều tiến bộ so với giai đoạn 2011 - 2015. Các chỉ tiêu an toàn nợ được kiểm soát chặt chẽ, nằm trong giới hạn trần được Quốc hội phê chuẩn cho từng giai đoạn và có xu hướng giảm dần, góp phần đảm bảo an ninh tài chính quốc gia và bồi đắp dư địa chính sách tài khóa.

Giai đoạn 2016 - 2020, 5/6 chỉ tiêu nợ công đến cuối năm 2020 nằm trong ngưỡng an toàn được Quốc hội cho phép, trong đó nợ công khoảng 55,9% GDP, nợ Chính phủ khoảng 49,9% GDP, nợ nước ngoài quốc gia khoảng 47,9% GDP. Cơ cấu vay nợ trong nước, nước ngoài được điều chỉnh theo hướng bền vững hơn.

Việc trả nợ luôn đảm bảo đúng hạn, không để xảy ra nợ quá hạn làm ảnh hưởng tới các cam kết, góp phần cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia và tăng dư địa chính sách tài khóa để tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế trước cú sốc vĩ mô.

Riêng đối với chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ nước ngoài quốc gia so với xuất khẩu, trong giai đoạn 2016 - 2020, chỉ tiêu này tăng mạnh, vượt giới hạn được Quốc hội cho phép trong cả giai đoạn chủ yếu do hoạt động rút vốn và trả nợ gốc các khoản vay nước ngoài ngắn hạn của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng tiếp tục tăng mạnh...

Tóm lại, công tác quản lý nợ công giai đoạn 2011 - 2020 luôn bám sát các nhiệm vụ đề ra tại Chiến lược nợ công, góp phần triển khai thành công nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đạt được nhiều kết quả quan trọng, thể hiện trên các nội dung sau:

(i) Đã huy động vốn vay từ nguồn trong và ngoài nước đảm bảo đáp ứng nhu cầu bù đắp bội chi NSNN và đầu tư phát triển kinh tế - xã hội theo các nghị quyết của Quốc hội trong từng giai đoạn và hàng năm.

(ii) Kịp thời điều chỉnh, áp dụng các biện pháp quyết liệt kiểm soát nợ công, nợ Chính phủ, đảm bảo luôn nằm trong giới hạn các chỉ tiêu an toàn đã đề ra tại Chiến lược và tuân thủ các Nghị quyết của Quốc hội, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.

(iii) Hiệu quả công tác quản lý, sử dụng vốn vay về cho vay lại, vốn vay Chính phủ bảo lãnh có nhiều cải thiện.

(iv) Áp dụng công cụ quản lý nợ công theo thông lệ quốc tế, bước đầu áp dụn các nghiệp vụ quản lý rủi ro, góp phần phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu chính phủ.

(v) Củng cố tài khóa và kiềm chế nợ công tạo dư địa dự phòng chính sách để ứng phó với rủi ro vĩ mô, góp phần cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia.

Một số hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện Chiến lược nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020, cụ thể như sau:

Một là, áp lực trả nợ của Chính phủ có xu hướng tăng lên. Danh mục nợ Chính phủ hiện vẫn tiềm ẩn rủi ro, vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài khó khăn hơn trước đây.

Hai là, kỳ hạn trái phiếu chính phủ chưa đa dạng, huy động vốn của Chính phủ gặp áp lực nhất định tại một số thời điểm; thị trường trái phiếu chính phủ chưa hình thành đường cong lãi suất chuẩn đối với kỳ hạn ngắn và còn thiếu nhà đầu tư dài hạn.

Ba là, tiến độ huy động vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài chưa đáp ứng yêu cầu, do chất lượng và tiến độ chuẩn bị các chương trình, dự án ít cải thiện trong khi điều kiện vay nước ngoài trở nên kém ưu đãi hơn.

Quản lý nợ công chặt chẽ, an toàn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia - Ảnh 2

Bốn là, công tác quản lý nợ của chính quyền địa phương còn hạn chế, cả về bộ máy cũng như năng lực quản lý.

Năm là, công tác quản lý, kiểm soát nợ nước ngoài của quốc gia còn khó khăn, do khuôn khổ quản lý chưa bắt kịp với bối cảnh Việt Nam trở thành quốc gia thu nhập trung bình.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trên là do khó khăn nội tại của nền kinh tế, cũng như tác động từ sự biến động của môi trường kinh tế, chính trị thế giới đã ảnh hưởng đến việc thực hiện một số chỉ tiêu Chiến lược nợ công. Tuy nhiên, những hạn chế xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, bao gồm tổ chức thực hiện chương trình, dự án đầu tư công còn bất cập.

Quy mô thị trường vốn còn nhỏ so với các nước trong khu vực, trong khi nhu cầu huy động vốn cho đầu tư phát triển lớn; tiềm lực tài chính của các tổ chức tài chính phi ngân hàng và sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài còn hạn chế. Quy định pháp luật về tổ chức bộ máy quản lý nợ tại địa phương chưa đầy đủ, thiếu sự liên kết giữa khâu huy động vốn và theo dõi quá trình vay, bố trí nguồn trả nợ tại địa phương.

Chức năng về quản lý nợ công còn chưa thống nhất; còn một số chồng chéo, về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan. Trong bối cảnh Việt Nam trở thành quốc gia thu nhập trung bình, chi phí huy động vốn vay có xu hướng tăng dần; tỷ lệ cam kết vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài giảm đặt ra những thách thức mới trong việc tìm kiếm nguồn vốn thay thế cho vốn ODA.

Bài học kinh nghiệm

Từ thực trạng và nguyên nhân trên, có thể rút ra một số bài học sau:

Một là, trong chỉ đạo, điều hành cần sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo, phát huy tối đa sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, kết hợp chặt chẽ, hiệu quả với các bộ, cơ quan trung ương, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp trong thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu về nợ công.

Hai là, từ thực tế Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế cho thấy, tầm quan trọng của việc quản lý nợ công, trong đó bao gồm việc giải quyết mối quan hệ giữa ngân sách, đầu tư công và quản lý nợ. Công tác phân tích, dự báo ngày càng trở nên quan trọng; kiên định các mục tiêu trọng tâm; đồng thời, nắm chắc tình hình, chủ động linh hoạt, ứng phó nhanh với các biến động về chính trị, kinh tế, thị trường vốn trong và ngoài nước để đáp ứng nhu cầu huy động vốn tăng cao tại một số thời điểm cho NSNN.

Ba là, việc thực hiện chủ trương tái cơ cấu lại NSNN và quản lý nợ công theo Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị, các nghị quyết của Quốc hội về huy động và sử dụng các nguồn lực, trong đó có nợ công là hết sức quan trọng.

Cùng với đó, việc hoàn thiện thể chế về quản lý nợ thông qua ban hành Luật Quản lý nợ công năm 2017 và các văn bản hướng dẫn là một trong những yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo quản lý nợ bền vững.

Bốn là, khuôn khổ quản lý nợ công cần tiếp tục cập nhật vớilộ trình và bước đi phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế, tiến tới ứng dụng công cụ quản lý nợ hiện đại, phù hợp với thông lệ tốt của quốc tế; triển khai huy động, phân bổ, sử dụng vốn hiệu quả và gắn kết với công tác quản lý ngân quỹ Nhà nước; kiểm soát chặt chẽ nợ công, bội chi NSNN và nợ của chính quyền địa phương, bảo đảm dự phòng các rủi ro tiềm ẩn.

Năm là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chấp hành pháp luật về nợ công, thực hiện động viên, khen thưởng kịp thời. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, tiếp tục hoàn thiện công tác thống kê, cơ sở dữ liệu về quản lý nợ, nâng cao năng lực cán bộ tham mưu chính sách và tác nghiệp quản lý nợ.

Định hướng Chiến lược quản lý nợ công đến năm 2030

Dự báo bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế thời gian tới tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường, nợ công và nợ của khu vực tư nhân toàn cầu tăng, rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng.

Trong bối cảnh tình hình mới sẽ có nhiều khó khăn, thách thức, nợ công tiếp tục là đòn bẩy cho phát triển kinh tế - xã hội, tạo động lực tăng trưởng bền vững. Để quản lý nợ công chặt chẽ, an toàn và bền vững, ngày 14/4/2022, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đã ký Quyết định số 460/QĐ-TTg về phê duyệt Chiến lược nợ công đến năm 2030. Chiến lược này đã đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể sau:

Giai đoạn 2021-2025

Kiểm soát chỉ tiêu bội chi NSNN được Quốc hội phê duyệt trong dự toán NSNN hàng năm và kế hoạch tài chính quốc gia 5 năm giai đoạn 2021-2025, đảm bảo các chỉ tiêu an toàn về nợ bao gồm trần, ngưỡng nợ trong giới hạn được Quốc hội phê duyệt. Để đạt được mục tiêu này, Chiến lược nợ công đến năm 2030 đã đề ra các nhiệm vụ cụ thể cần triển khai thực hiện trong giai đoạn 2021-2025 gồm:

- Tiếp tục rà soát các luật, nghị định, đề xuất nội dung sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện về quy định thể chế, chức năng nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, chính quyền địa phương đảm bảo nhất quán với quy định của Luật Quản lý nợ công năm 2017. Đồng thời, nghiên cứu, đề xuất các giải pháp thống nhất chức năng quản lý vốn vay nợ công với quản lý đầu tư công trong tổng thể NSNN để nâng cao hiệu quả.

- Thực hiện tốt các công cụ nợ (chiến lược, kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm, chương trình quản lý nợ công 3 năm, kế hoạch vay, trả nợ công hằng năm) làm căn cứ triển khai các nghiệp vụ về huy động, sử dụng vốn vay cho đầu tư phát triển trong từng giai đoạn cụ thể.

- Rà soát, đánh giá tình hình triển khai Luật Quản lý nợ công năm 2017, báo cáo Chính phủ bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các quy định để triển khai có hiệu quả Luật Quản lý nợ công. Bổ sung chế tài để nâng cao trách nhiệm thanh toán trả nợ của đối tượng được bảo lãnh, không chuyển nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp thành nghĩa vụ nợ của Nhà nước. Nghiên cứu, bổ sung quy định về khung quản lý rủi ro danh mục nợ Chính phủ phù hợp với thông lệ quốc tế.

- Nghiên cứu, tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện các hạn mức nợ nước ngoài khu vực tư nhân, báo cáo Chính phủ đề xuất chủ trương bổ sung, sửa đổi hoặc báo cáo Quốc hội sửa đổi các quy định về giám sát, quản lý nợ nước ngoài tự vay, tự trả của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng cho phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước, tính chất nguồn vốn vay và đối tượng vay.

Mục tiêu định hướng đến năm 2030

Bên cạnh đề ra các mục tiêu nhiệm vụ trong giai đoạn 2021 - 2025, Chiến lược cũng đề ra một số mục tiêu cụ thể đến năm 2030 như sau: Nợ công không quá 60% GDP, nợ Chính phủ không quá 50% GDP. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ không quá 25% tổng thu NSNN. Nợ nước ngoài của quốc gia không quá 45% GDP.

Ngoài ra, Chiến lược nợ công đến năm 2030 đã đề ra các định hướng sau:

Một là, thường xuyên đánh giá tác động của vay vốn lên nợ công, nợ Chính phủ và nghĩa vụ trả nợ; kiểm soát đồng thời tỷ lệ bội chi NSNN và tỷ lệ trả nợ trực tiếp từ ngân sách, đảm bảo trong ngưỡng cho phép.

Hai là, đa dạng hóa kỳ hạn, phương thức vay để đáp ứng nhu cầu huy động vốn và phát triển thị trường; tập trung giải ngân hết nguồn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài đã ký vay, huy động vay mới tập trung cho một số lĩnh vực chủ chốt; ưu tiên đầu tư cho các dự án trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng gắn với phát triển bền vững.

Ba là, xây dựng một số chương trình đầu tư công để thực hiện một số dự án, công trình quan trọng, trọng điểm, có tính động lực, sức lan tỏa lớn và giải quyết các vấn đề phát triển quốc gia, vùng và liên kết vùng.

Bốn là, điều hành nợ chính quyền địa phương trong phạm vi bội chi ngân sách địa phương được Quốc hội phê duyệt, đảm bảo trong hạn mức dư nợ theo Luật NSNN.

Năm là, kiểm soát chặt chẽ nghĩa vụ nợ dự phòng, quản lý các khoản bảo lãnh, đúng quy định, hiệu quả trong phạm vi hạn mức bảo lãnh; kiểm soát chặt chẽ nợ nước ngoài tự vay tự trả của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng, đảm bảo chỉ tiêu nợ nước ngoài quốc gia trong giới hạn cho phép.

Sáu là, nghiên cứu, hoàn thiện thể chế để áp dụng biện pháp kiểm soát luồng vốn trong quản lý nợ nước ngoài tự vay, tự trả để phù hợp với thông lệ quốc tế. Đổi mới phương thức quản lý nợ nước ngoài quốc gia cho phù hợp với tính chất vốn vay ngắn hạn, trung và dài hạn, tính chất và mức độ rủi ro của từng nhóm đối tượng.

Ngoài các nội dung trên, Chiến lược đã đề ra các nhiệm vụ và giải pháp thực hiện gồm: Hoàn thiện thể chế chính sách và công cụ quản lý nợ; Thực hiện các công cụ, biện pháp quản lý nợ hiện đại; Huy động, quản lý và sử dụng nợ hiệu quả; Tiếp tục tăng cường công khai, minh bạch về huy động, quản lý và sử dụng nợ công, nâng cao định mức tín nhiệm quốc gia; Phát triển thị trường tài chính, thị trường vốn trong nước; Kiểm soát nghĩa vụ nợ dự phòng của NSNN; Tổ chức bộ máy, ứng dụng công nghệ thông tin; Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với nợ công.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Chính trị (2017), Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản l. nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững;

2. Quốc hội (2016), Nghị quyết số 25/2016/QH14 ngày 9/11/2016 về kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016 - 2020;

3. Quốc hội (2017), Luật Quản l. nợ công năm 2017;

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII;

5. Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 460/QĐ-TTg ngày 14/4/2022 phê duyệt Chiến lược nợ công đến năm 2030.

* Theo Trương Hùng Long - Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính).

** Bài viết đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 6/2022.

Quản lý nợ công chặt chẽ, an toàn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia

Ảnh 12:05 | 17/07/2022
Trong 10 năm qua, các chỉ tiêu an toàn nợ công tiếp tục được kiểm soát chặt chẽ trong giới hạn an toàn, góp phần đảm bảo an ninh tài chính quốc gia và bồi đắp dư địa chính sách tài khóa. Tuy nhiên, khả năng huy động vốn vay ODA, vay ưu đãi ngày càng giảm, trong khi khả năng hấp thụ vốn của thị trường trong nước còn hạn chế, gây ra áp lực trả nợ của Chính phủ tăng cao, khuôn khổ quản lý nợ nước ngoài của quốc gia không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế của nước ta... Đây là những vấn đề cần phải đánh giá, phân tích để đưa ra định hướng quản lý nợ công phù hợp, đảm bảo bền vững nợ công, an ninh tài chính quốc gia, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn mới.

Kết quả thực hiện Chiến lược nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 - 2020

Giai đoạn 2011 - 2015, tích lũy của nền kinh tế còn thấp, khả năng huy động vốn đầu tư từ các nguồn ngoài ngân sách nhà nước (NSNN) còn hạn chế; kinh tế tăng trưởng thấp hơn dự kiến; nguồn thu NSNN bị ảnh hưởng bởi việc thực hiện các chính sách miễn, giảm thuế.

Để đáp ứng nhu cầu chi NSNN, đặc biệt là chi cho đầu tư phát triển ngày càng tăng, bội chi NSNN đã được điều hành theo hướng linh hoạt. Thực hiện các nghị quyết, quyết định của cấp có thẩm quyền, các chỉ tiêu an toàn nợ giai đoạn 2011 - 2015 đều nằm trong ngưỡng an toàn.

Đến cuối năm 2015, nợ công trong khoảng 61% GDP, nợ Chính phủ khoảng 49,2% GDP và nợ nước ngoài quốc gia khoảng 42% GDP.

Bước sang giai đoạn 2016 - 2020, kinh tế vĩ mô đã đạt được những thành tựu nhất định, nền kinh tế ổn định hơn so với giai đoạn 2011 - 2015, môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện rõ nét. Việc Việt Nam gia nhập nhóm quốc gia thu nhập trung bình thấp là một dấu mốc quan trọng, mở ra nhiều khả năng mới để quản lý nợ chủ động, hiệu quả. Sự phát triển nhanh chóng của thị trường trái phiếu trong nước đem lại cơ hội huy động nợ tương đối dài hạn với chi phí hợp lý...

Quản lý nợ công chặt chẽ, an toàn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia - Ảnh 1

Cũng trong giai đoạn này, thực hiện các giải pháp cơ cấu lại NSNN theo Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội, bội chi NSNN giảm nhanh, bình quân đạt khoảng 3,45% GDP, giảm mạnh so với giai đoạn 2011-2015 là 5,8% GDP, đảm bảo mục tiêu của Chiến lược tài chính đến năm 2020 và Nghị quyết số 07-NQ/TW là đến năm 2020 xuống dưới 4% GDP và mục tiêu không quá 3,9% GDP theo Nghị quyết số 25/2016/QH14 của Quốc hội.

Công tác quản lý nợ công đã có nhiều tiến bộ so với giai đoạn 2011 - 2015. Các chỉ tiêu an toàn nợ được kiểm soát chặt chẽ, nằm trong giới hạn trần được Quốc hội phê chuẩn cho từng giai đoạn và có xu hướng giảm dần, góp phần đảm bảo an ninh tài chính quốc gia và bồi đắp dư địa chính sách tài khóa.

Giai đoạn 2016 - 2020, 5/6 chỉ tiêu nợ công đến cuối năm 2020 nằm trong ngưỡng an toàn được Quốc hội cho phép, trong đó nợ công khoảng 55,9% GDP, nợ Chính phủ khoảng 49,9% GDP, nợ nước ngoài quốc gia khoảng 47,9% GDP. Cơ cấu vay nợ trong nước, nước ngoài được điều chỉnh theo hướng bền vững hơn.

Việc trả nợ luôn đảm bảo đúng hạn, không để xảy ra nợ quá hạn làm ảnh hưởng tới các cam kết, góp phần cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia và tăng dư địa chính sách tài khóa để tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế trước cú sốc vĩ mô.

Riêng đối với chỉ tiêu nghĩa vụ trả nợ nước ngoài quốc gia so với xuất khẩu, trong giai đoạn 2016 - 2020, chỉ tiêu này tăng mạnh, vượt giới hạn được Quốc hội cho phép trong cả giai đoạn chủ yếu do hoạt động rút vốn và trả nợ gốc các khoản vay nước ngoài ngắn hạn của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng tiếp tục tăng mạnh...

Tóm lại, công tác quản lý nợ công giai đoạn 2011 - 2020 luôn bám sát các nhiệm vụ đề ra tại Chiến lược nợ công, góp phần triển khai thành công nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đạt được nhiều kết quả quan trọng, thể hiện trên các nội dung sau:

(i) Đã huy động vốn vay từ nguồn trong và ngoài nước đảm bảo đáp ứng nhu cầu bù đắp bội chi NSNN và đầu tư phát triển kinh tế - xã hội theo các nghị quyết của Quốc hội trong từng giai đoạn và hàng năm.

(ii) Kịp thời điều chỉnh, áp dụng các biện pháp quyết liệt kiểm soát nợ công, nợ Chính phủ, đảm bảo luôn nằm trong giới hạn các chỉ tiêu an toàn đã đề ra tại Chiến lược và tuân thủ các Nghị quyết của Quốc hội, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.

(iii) Hiệu quả công tác quản lý, sử dụng vốn vay về cho vay lại, vốn vay Chính phủ bảo lãnh có nhiều cải thiện.

(iv) Áp dụng công cụ quản lý nợ công theo thông lệ quốc tế, bước đầu áp dụn các nghiệp vụ quản lý rủi ro, góp phần phát triển thị trường vốn, thị trường trái phiếu chính phủ.

(v) Củng cố tài khóa và kiềm chế nợ công tạo dư địa dự phòng chính sách để ứng phó với rủi ro vĩ mô, góp phần cải thiện hệ số tín nhiệm quốc gia.

Một số hạn chế và nguyên nhân

Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số hạn chế trong quá trình triển khai thực hiện Chiến lược nợ công, nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011-2020, cụ thể như sau:

Một là, áp lực trả nợ của Chính phủ có xu hướng tăng lên. Danh mục nợ Chính phủ hiện vẫn tiềm ẩn rủi ro, vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài khó khăn hơn trước đây.

Hai là, kỳ hạn trái phiếu chính phủ chưa đa dạng, huy động vốn của Chính phủ gặp áp lực nhất định tại một số thời điểm; thị trường trái phiếu chính phủ chưa hình thành đường cong lãi suất chuẩn đối với kỳ hạn ngắn và còn thiếu nhà đầu tư dài hạn.

Ba là, tiến độ huy động vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài chưa đáp ứng yêu cầu, do chất lượng và tiến độ chuẩn bị các chương trình, dự án ít cải thiện trong khi điều kiện vay nước ngoài trở nên kém ưu đãi hơn.

Quản lý nợ công chặt chẽ, an toàn, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia - Ảnh 2

Bốn là, công tác quản lý nợ của chính quyền địa phương còn hạn chế, cả về bộ máy cũng như năng lực quản lý.

Năm là, công tác quản lý, kiểm soát nợ nước ngoài của quốc gia còn khó khăn, do khuôn khổ quản lý chưa bắt kịp với bối cảnh Việt Nam trở thành quốc gia thu nhập trung bình.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trên là do khó khăn nội tại của nền kinh tế, cũng như tác động từ sự biến động của môi trường kinh tế, chính trị thế giới đã ảnh hưởng đến việc thực hiện một số chỉ tiêu Chiến lược nợ công. Tuy nhiên, những hạn chế xuất phát từ các nguyên nhân chủ quan là chủ yếu, bao gồm tổ chức thực hiện chương trình, dự án đầu tư công còn bất cập.

Quy mô thị trường vốn còn nhỏ so với các nước trong khu vực, trong khi nhu cầu huy động vốn cho đầu tư phát triển lớn; tiềm lực tài chính của các tổ chức tài chính phi ngân hàng và sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài còn hạn chế. Quy định pháp luật về tổ chức bộ máy quản lý nợ tại địa phương chưa đầy đủ, thiếu sự liên kết giữa khâu huy động vốn và theo dõi quá trình vay, bố trí nguồn trả nợ tại địa phương.

Chức năng về quản lý nợ công còn chưa thống nhất; còn một số chồng chéo, về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan. Trong bối cảnh Việt Nam trở thành quốc gia thu nhập trung bình, chi phí huy động vốn vay có xu hướng tăng dần; tỷ lệ cam kết vốn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài giảm đặt ra những thách thức mới trong việc tìm kiếm nguồn vốn thay thế cho vốn ODA.

Bài học kinh nghiệm

Từ thực trạng và nguyên nhân trên, có thể rút ra một số bài học sau:

Một là, trong chỉ đạo, điều hành cần sự chủ động, linh hoạt, sáng tạo, phát huy tối đa sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, kết hợp chặt chẽ, hiệu quả với các bộ, cơ quan trung ương, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp trong thực hiện các nhiệm vụ, mục tiêu về nợ công.

Hai là, từ thực tế Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế cho thấy, tầm quan trọng của việc quản lý nợ công, trong đó bao gồm việc giải quyết mối quan hệ giữa ngân sách, đầu tư công và quản lý nợ. Công tác phân tích, dự báo ngày càng trở nên quan trọng; kiên định các mục tiêu trọng tâm; đồng thời, nắm chắc tình hình, chủ động linh hoạt, ứng phó nhanh với các biến động về chính trị, kinh tế, thị trường vốn trong và ngoài nước để đáp ứng nhu cầu huy động vốn tăng cao tại một số thời điểm cho NSNN.

Ba là, việc thực hiện chủ trương tái cơ cấu lại NSNN và quản lý nợ công theo Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị, các nghị quyết của Quốc hội về huy động và sử dụng các nguồn lực, trong đó có nợ công là hết sức quan trọng.

Cùng với đó, việc hoàn thiện thể chế về quản lý nợ thông qua ban hành Luật Quản lý nợ công năm 2017 và các văn bản hướng dẫn là một trong những yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo quản lý nợ bền vững.

Bốn là, khuôn khổ quản lý nợ công cần tiếp tục cập nhật vớilộ trình và bước đi phù hợp với yêu cầu phát triển của nền kinh tế, tiến tới ứng dụng công cụ quản lý nợ hiện đại, phù hợp với thông lệ tốt của quốc tế; triển khai huy động, phân bổ, sử dụng vốn hiệu quả và gắn kết với công tác quản lý ngân quỹ Nhà nước; kiểm soát chặt chẽ nợ công, bội chi NSNN và nợ của chính quyền địa phương, bảo đảm dự phòng các rủi ro tiềm ẩn.

Năm là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra chấp hành pháp luật về nợ công, thực hiện động viên, khen thưởng kịp thời. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, tiếp tục hoàn thiện công tác thống kê, cơ sở dữ liệu về quản lý nợ, nâng cao năng lực cán bộ tham mưu chính sách và tác nghiệp quản lý nợ.

Định hướng Chiến lược quản lý nợ công đến năm 2030

Dự báo bối cảnh kinh tế trong nước và quốc tế thời gian tới tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó lường, nợ công và nợ của khu vực tư nhân toàn cầu tăng, rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng.

Trong bối cảnh tình hình mới sẽ có nhiều khó khăn, thách thức, nợ công tiếp tục là đòn bẩy cho phát triển kinh tế - xã hội, tạo động lực tăng trưởng bền vững. Để quản lý nợ công chặt chẽ, an toàn và bền vững, ngày 14/4/2022, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Minh Khái đã ký Quyết định số 460/QĐ-TTg về phê duyệt Chiến lược nợ công đến năm 2030. Chiến lược này đã đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể sau:

Giai đoạn 2021-2025

Kiểm soát chỉ tiêu bội chi NSNN được Quốc hội phê duyệt trong dự toán NSNN hàng năm và kế hoạch tài chính quốc gia 5 năm giai đoạn 2021-2025, đảm bảo các chỉ tiêu an toàn về nợ bao gồm trần, ngưỡng nợ trong giới hạn được Quốc hội phê duyệt. Để đạt được mục tiêu này, Chiến lược nợ công đến năm 2030 đã đề ra các nhiệm vụ cụ thể cần triển khai thực hiện trong giai đoạn 2021-2025 gồm:

- Tiếp tục rà soát các luật, nghị định, đề xuất nội dung sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện về quy định thể chế, chức năng nhiệm vụ của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, chính quyền địa phương đảm bảo nhất quán với quy định của Luật Quản lý nợ công năm 2017. Đồng thời, nghiên cứu, đề xuất các giải pháp thống nhất chức năng quản lý vốn vay nợ công với quản lý đầu tư công trong tổng thể NSNN để nâng cao hiệu quả.

- Thực hiện tốt các công cụ nợ (chiến lược, kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm, chương trình quản lý nợ công 3 năm, kế hoạch vay, trả nợ công hằng năm) làm căn cứ triển khai các nghiệp vụ về huy động, sử dụng vốn vay cho đầu tư phát triển trong từng giai đoạn cụ thể.

- Rà soát, đánh giá tình hình triển khai Luật Quản lý nợ công năm 2017, báo cáo Chính phủ bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện các quy định để triển khai có hiệu quả Luật Quản lý nợ công. Bổ sung chế tài để nâng cao trách nhiệm thanh toán trả nợ của đối tượng được bảo lãnh, không chuyển nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp thành nghĩa vụ nợ của Nhà nước. Nghiên cứu, bổ sung quy định về khung quản lý rủi ro danh mục nợ Chính phủ phù hợp với thông lệ quốc tế.

- Nghiên cứu, tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện các hạn mức nợ nước ngoài khu vực tư nhân, báo cáo Chính phủ đề xuất chủ trương bổ sung, sửa đổi hoặc báo cáo Quốc hội sửa đổi các quy định về giám sát, quản lý nợ nước ngoài tự vay, tự trả của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng cho phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước, tính chất nguồn vốn vay và đối tượng vay.

Mục tiêu định hướng đến năm 2030

Bên cạnh đề ra các mục tiêu nhiệm vụ trong giai đoạn 2021 - 2025, Chiến lược cũng đề ra một số mục tiêu cụ thể đến năm 2030 như sau: Nợ công không quá 60% GDP, nợ Chính phủ không quá 50% GDP. Nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ không quá 25% tổng thu NSNN. Nợ nước ngoài của quốc gia không quá 45% GDP.

Ngoài ra, Chiến lược nợ công đến năm 2030 đã đề ra các định hướng sau:

Một là, thường xuyên đánh giá tác động của vay vốn lên nợ công, nợ Chính phủ và nghĩa vụ trả nợ; kiểm soát đồng thời tỷ lệ bội chi NSNN và tỷ lệ trả nợ trực tiếp từ ngân sách, đảm bảo trong ngưỡng cho phép.

Hai là, đa dạng hóa kỳ hạn, phương thức vay để đáp ứng nhu cầu huy động vốn và phát triển thị trường; tập trung giải ngân hết nguồn vay ODA, vay ưu đãi nước ngoài đã ký vay, huy động vay mới tập trung cho một số lĩnh vực chủ chốt; ưu tiên đầu tư cho các dự án trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng gắn với phát triển bền vững.

Ba là, xây dựng một số chương trình đầu tư công để thực hiện một số dự án, công trình quan trọng, trọng điểm, có tính động lực, sức lan tỏa lớn và giải quyết các vấn đề phát triển quốc gia, vùng và liên kết vùng.

Bốn là, điều hành nợ chính quyền địa phương trong phạm vi bội chi ngân sách địa phương được Quốc hội phê duyệt, đảm bảo trong hạn mức dư nợ theo Luật NSNN.

Năm là, kiểm soát chặt chẽ nghĩa vụ nợ dự phòng, quản lý các khoản bảo lãnh, đúng quy định, hiệu quả trong phạm vi hạn mức bảo lãnh; kiểm soát chặt chẽ nợ nước ngoài tự vay tự trả của doanh nghiệp, tổ chức tín dụng, đảm bảo chỉ tiêu nợ nước ngoài quốc gia trong giới hạn cho phép.

Sáu là, nghiên cứu, hoàn thiện thể chế để áp dụng biện pháp kiểm soát luồng vốn trong quản lý nợ nước ngoài tự vay, tự trả để phù hợp với thông lệ quốc tế. Đổi mới phương thức quản lý nợ nước ngoài quốc gia cho phù hợp với tính chất vốn vay ngắn hạn, trung và dài hạn, tính chất và mức độ rủi ro của từng nhóm đối tượng.

Ngoài các nội dung trên, Chiến lược đã đề ra các nhiệm vụ và giải pháp thực hiện gồm: Hoàn thiện thể chế chính sách và công cụ quản lý nợ; Thực hiện các công cụ, biện pháp quản lý nợ hiện đại; Huy động, quản lý và sử dụng nợ hiệu quả; Tiếp tục tăng cường công khai, minh bạch về huy động, quản lý và sử dụng nợ công, nâng cao định mức tín nhiệm quốc gia; Phát triển thị trường tài chính, thị trường vốn trong nước; Kiểm soát nghĩa vụ nợ dự phòng của NSNN; Tổ chức bộ máy, ứng dụng công nghệ thông tin; Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với nợ công.

Tài liệu tham khảo:

1. Bộ Chính trị (2017), Nghị quyết số 07-NQ/TW ngày 18/11/2016 về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại ngân sách nhà nước, quản l. nợ công để đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững;

2. Quốc hội (2016), Nghị quyết số 25/2016/QH14 ngày 9/11/2016 về kế hoạch tài chính 5 năm quốc gia giai đoạn 2016 - 2020;

3. Quốc hội (2017), Luật Quản l. nợ công năm 2017;

4. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII;

5. Thủ tướng Chính phủ (2022), Quyết định số 460/QĐ-TTg ngày 14/4/2022 phê duyệt Chiến lược nợ công đến năm 2030.

* Theo Trương Hùng Long - Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Tài chính đối ngoại (Bộ Tài chính).

** Bài viết đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 1 tháng 6/2022.

Tin tức khác

Chùm ảnh: Diễn đàn Kinh tế - Tài chính Việt Nam 2025

Chùm ảnh: Diễn đàn Kinh tế - Tài chính Việt Nam 2025

Ngày 5/12 tại TP. Hà Nội, Diễn đàn Kinh tế - Tài chính Việt Nam 2025 diễn ra với chủ đề “Định vị Việt Nam trong bối cảnh mới và tầm nhìn chiến lược kinh tế - tài chính giai đoạn 2026-2030”.
Nghiên cứu nâng ngưỡng doanh thu, cải tiến cách tính thuế thu nhập cá nhân

Nghiên cứu nâng ngưỡng doanh thu, cải tiến cách tính thuế thu nhập cá nhân

Bộ Tài chính đang hoàn thiện phương án áp dụng thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân kinh doanh theo hướng công bằng hơn giữa các nhóm thu nhập, đồng thời giảm gánh nặng thuế cho hộ và cá nhân kinh doanh có quy mô nhỏ.
Bộ Tài chính phát động ủng hộ đồng bào bị thiệt hại do mưa lũ tại các tỉnh miền Trung

Bộ Tài chính phát động ủng hộ đồng bào bị thiệt hại do mưa lũ tại các tỉnh miền Trung

Phát huy truyền thống đoàn kết, tinh thần “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách”, chiều 26/11, Bộ Tài chính đã tổ chức Lễ phát động kêu gọi toàn thể cán bộ, công chức, viên chức và người lao động ngành Tài chính quyên góp ủng hộ đồng bào bị thiệt hại do mưa lũ tại các tỉnh miền Trung.
Điều chỉnh giảm trừ gia cảnh và cải tiến biểu thuế thu nhập cá nhân

Điều chỉnh giảm trừ gia cảnh và cải tiến biểu thuế thu nhập cá nhân

Dự án Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) sửa đổi đang được Bộ Tài chính hoàn thiện theo hướng tăng mức giảm trừ gia cảnh và cải tiến biểu thuế lũy tiến, nhằm giảm nghĩa vụ thuế và bảo đảm chính sách phù hợp hơn với đời sống người dân.
Ứng dụng số hóa hiệu quả trong quản lý và chi trả an sinh

Ứng dụng số hóa hiệu quả trong quản lý và chi trả an sinh

Trước yêu cầu hiện đại hóa quản lý và nâng cao chất lượng phục vụ, Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam đã tập trung đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong toàn Ngành. Những nỗ lực này góp phần quan trọng vào thực hiện Đề án 06, phát triển Chính phủ số và bảo đảm quyền lợi người dân, doanh nghiệp trong thụ hưởng chính sách an sinh xã hội.
Khai mạc Kỳ họp đàm phán cấp Chính phủ về Hợp tác phát triển Việt Nam - Đức năm 2025

Khai mạc Kỳ họp đàm phán cấp Chính phủ về Hợp tác phát triển Việt Nam - Đức năm 2025

Sáng ngày 26/11, ông Nguyễn Quốc Phương - Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Kinh tế đối ngoại (Bộ Tài chính) và Bà Gisela Hammerschmidt - Vụ trưởng Vụ 31 chuyên trách châu Á (Bộ Hợp tác kinh tế và Phát triển Cộng hòa Liên bang Đức) đồng chủ trì phiên Khai mạc Kỳ họp đàm phán cấp Chính phủ về Hợp tác phát triển Việt Nam-Đức năm 2025 nhằm rà soát tiến độ hợp tác, tháo gỡ vướng mắc và xác định các trọng tâm ưu tiên hợp tác ODA trong giai đoạn tới.
Hỗ trợ 1.100 tỷ đồng cho 4 tỉnh Khánh Hòa, Lâm Đồng, Gia Lai, Đắk Lắk khắc phục thiệt hại do mưa lũ

Hỗ trợ 1.100 tỷ đồng cho 4 tỉnh Khánh Hòa, Lâm Đồng, Gia Lai, Đắk Lắk khắc phục thiệt hại do mưa lũ

Ủy ban nhân dân các tỉnh có trách nhiệm chủ động cân đối chi ngân sách địa phương cùng với số kinh phí được ngân sách trung ương hỗ trợ và các nguồn lực tài chính hợp pháp khác triển khai khắc phục hậu quả thiên tai theo quy định.
Bộ Tài chính chủ động triển khai hỗ trợ các tỉnh, thành phố miền Trung ứng phó, khắc phục hậu quả mưa, lũ

Bộ Tài chính chủ động triển khai hỗ trợ các tỉnh, thành phố miền Trung ứng phó, khắc phục hậu quả mưa, lũ

Trước tình hình mưa, lũ diễn biến phức tạp và gây thiệt hại nặng nề tại các tỉnh, thành phố khu vực miền Trung, Bộ Tài chính đã và đang khẩn trương tham mưu Chính phủ, chỉ đạo các giải pháp hỗ trợ các địa phương ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.
Xem thêm

Tin tức khác

Chùm ảnh: Diễn đàn Kinh tế - Tài chính Việt Nam 2025

Chùm ảnh: Diễn đàn Kinh tế - Tài chính Việt Nam 2025

Ngày 5/12 tại TP. Hà Nội, Diễn đàn Kinh tế - Tài chính Việt Nam 2025 diễn ra với chủ đề “Định vị Việt Nam trong bối cảnh mới và tầm nhìn chiến lược kinh tế - tài chính giai đoạn 2026-2030”.
Nghiên cứu nâng ngưỡng doanh thu, cải tiến cách tính thuế thu nhập cá nhân

Nghiên cứu nâng ngưỡng doanh thu, cải tiến cách tính thuế thu nhập cá nhân

Bộ Tài chính đang hoàn thiện phương án áp dụng thuế thu nhập cá nhân đối với cá nhân kinh doanh theo hướng công bằng hơn giữa các nhóm thu nhập, đồng thời giảm gánh nặng thuế cho hộ và cá nhân kinh doanh có quy mô nhỏ.
Bộ Tài chính phát động ủng hộ đồng bào bị thiệt hại do mưa lũ tại các tỉnh miền Trung

Bộ Tài chính phát động ủng hộ đồng bào bị thiệt hại do mưa lũ tại các tỉnh miền Trung

Phát huy truyền thống đoàn kết, tinh thần “tương thân tương ái”, “lá lành đùm lá rách”, chiều 26/11, Bộ Tài chính đã tổ chức Lễ phát động kêu gọi toàn thể cán bộ, công chức, viên chức và người lao động ngành Tài chính quyên góp ủng hộ đồng bào bị thiệt hại do mưa lũ tại các tỉnh miền Trung.
Điều chỉnh giảm trừ gia cảnh và cải tiến biểu thuế thu nhập cá nhân

Điều chỉnh giảm trừ gia cảnh và cải tiến biểu thuế thu nhập cá nhân

Dự án Luật Thuế thu nhập cá nhân (TNCN) sửa đổi đang được Bộ Tài chính hoàn thiện theo hướng tăng mức giảm trừ gia cảnh và cải tiến biểu thuế lũy tiến, nhằm giảm nghĩa vụ thuế và bảo đảm chính sách phù hợp hơn với đời sống người dân.
Ứng dụng số hóa hiệu quả trong quản lý và chi trả an sinh

Ứng dụng số hóa hiệu quả trong quản lý và chi trả an sinh

Trước yêu cầu hiện đại hóa quản lý và nâng cao chất lượng phục vụ, Bảo hiểm xã hội (BHXH) Việt Nam đã tập trung đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong toàn Ngành. Những nỗ lực này góp phần quan trọng vào thực hiện Đề án 06, phát triển Chính phủ số và bảo đảm quyền lợi người dân, doanh nghiệp trong thụ hưởng chính sách an sinh xã hội.
Khai mạc Kỳ họp đàm phán cấp Chính phủ về Hợp tác phát triển Việt Nam - Đức năm 2025

Khai mạc Kỳ họp đàm phán cấp Chính phủ về Hợp tác phát triển Việt Nam - Đức năm 2025

Sáng ngày 26/11, ông Nguyễn Quốc Phương - Cục trưởng Cục Quản lý nợ và Kinh tế đối ngoại (Bộ Tài chính) và Bà Gisela Hammerschmidt - Vụ trưởng Vụ 31 chuyên trách châu Á (Bộ Hợp tác kinh tế và Phát triển Cộng hòa Liên bang Đức) đồng chủ trì phiên Khai mạc Kỳ họp đàm phán cấp Chính phủ về Hợp tác phát triển Việt Nam-Đức năm 2025 nhằm rà soát tiến độ hợp tác, tháo gỡ vướng mắc và xác định các trọng tâm ưu tiên hợp tác ODA trong giai đoạn tới.
Hỗ trợ 1.100 tỷ đồng cho 4 tỉnh Khánh Hòa, Lâm Đồng, Gia Lai, Đắk Lắk khắc phục thiệt hại do mưa lũ

Hỗ trợ 1.100 tỷ đồng cho 4 tỉnh Khánh Hòa, Lâm Đồng, Gia Lai, Đắk Lắk khắc phục thiệt hại do mưa lũ

Ủy ban nhân dân các tỉnh có trách nhiệm chủ động cân đối chi ngân sách địa phương cùng với số kinh phí được ngân sách trung ương hỗ trợ và các nguồn lực tài chính hợp pháp khác triển khai khắc phục hậu quả thiên tai theo quy định.
Bộ Tài chính chủ động triển khai hỗ trợ các tỉnh, thành phố miền Trung ứng phó, khắc phục hậu quả mưa, lũ

Bộ Tài chính chủ động triển khai hỗ trợ các tỉnh, thành phố miền Trung ứng phó, khắc phục hậu quả mưa, lũ

Trước tình hình mưa, lũ diễn biến phức tạp và gây thiệt hại nặng nề tại các tỉnh, thành phố khu vực miền Trung, Bộ Tài chính đã và đang khẩn trương tham mưu Chính phủ, chỉ đạo các giải pháp hỗ trợ các địa phương ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai.
Xem thêm
quy-dinh-ve-nhan-dang-bai-bao-khoa-hoc-tren-tap-chi-kinh-te-tai-chinh

Chứng khoán quốc tế

GSPC 6,870.40
08/12 | +13.28 (6,870.40 +13.28 (+0.19%))
DJI 47,954.99
08/12 | +104.09 (47,954.99 +104.09 (+0.22%))
IXIC 23,578.13
08/12 | +73.03 (23,578.13 +73.03 (+0.31%))
NYA 21,810.07
08/12 | -25.73 (21,810.07 -25.73 (-0.12%))
XAX 7,193.24
08/12 | -84.76 (7,193.24 -84.76 (-1.16%))
BUK100P 968.47
08/12 | -5.25 (968.47 -5.25 (-0.54%))
RUT 2,521.48
08/12 | -9.68 (2,521.48 -9.68 (-0.38%))
VIX 15.41
08/12 | -0.37 (15.41 -0.37 (-2.34%))
FTSE 9,667.01
08/12 | -43.86 (9,667.01 -43.86 (-0.45%))
GDAXI 24,028.14
08/12 | +146.14 (24,028.14 +146.14 (+0.61%))
FCHI 8,114.74
08/12 | -7.29 (8,114.74 -7.29 (-0.09%))
STOXX50E 5,723.93
08/12 | +5.85 (5,723.93 +5.85 (+0.10%))
N100 1,705.34
08/12 | -3.78 (1,705.34 -3.78 (-0.22%))
BFX 5,029.74
08/12 | +16.39 (5,029.74 +16.39 (+0.33%))
MOEX.ME 85.20
08/12 | -0.11 (85.20 -0.11 (-0.13%))
HSI 25,797.95
08/12 | -287.13 (25,797.95 -287.13 (-1.10%))
STI 4,520.75
08/12 | -10.61 (4,520.75 -10.61 (-0.23%))
AXJO 8,614.30
08/12 | -20.30 (8,614.30 -20.30 (-0.24%))
AORD 8,906.50
08/12 | -19.60 (8,906.50 -19.60 (-0.22%))
BSESN 85,413.06
08/12 | -299.30 (85,413.06 -299.30 (-0.35%))
JKSE 8,706.60
08/12 | +73.84 (8,706.60 +73.84 (+0.86%))
KLSE 1,609.80
08/12 | -6.72 (1,609.80 -6.72 (-0.42%))
NZ50 13,486.32
08/12 | +2.33 (13,486.32 +2.33 (+0.02%))
KS11 4,134.35
08/12 | +34.30 (4,134.35 +34.30 (+0.84%))
TWII 28,235.09
08/12 | +254.20 (28,235.09 +254.20 (+0.91%))
GSPTSE 31,311.41
08/12 | -166.19 (31,311.41 -166.19 (-0.53%))
BVSP 157,369.36
08/12 | -7,086.64 (157,369.36 -7,086.64 (-4.31%))
MXX 63,378.30
08/12 | -336.60 (63,378.30 -336.60 (-0.53%))
IPSA 10,222.61
08/12 | +43.21 (10,222.61 +43.21 (+0.42%))
MERV 3,046,354.75
08/12 | -50,045.25 (3,046,354.75 -50,045.25 (-1.62%))
TA125.TA 3,567.36
08/12 | +31.66 (3,567.36 +31.66 (+0.90%))
CASE30 41,762.40
08/12 | +420.40 (41,762.40 +420.40 (+1.02%))
JN0U.JO 6,649.98
08/12 | +112.74 (6,649.98 +112.74 (+1.72%))
DX-Y.NYB 98.89
08/12 | -0.10 (98.89 -0.10 (-0.11%))
125904-USD-STRD 2,564.76
08/12 | -6.50 (2,564.76 -6.50 (-0.25%))
XDB 133.31
08/12 | +0.06 (133.31 +0.06 (+0.05%))
XDE 116.43
08/12 | -0.02 (116.43 -0.02 (-0.02%))
000001.SS 3,927.19
08/12 | +24.39 (3,927.19 +24.39 (+0.62%))
N225 50,493.85
08/12 | +1.98 (50,493.85 +1.98 (+0.00%))
XDN 64.38
08/12 | -0.11 (64.38 -0.11 (-0.17%))
XDA 66.38
08/12 | +0.27 (66.38 +0.27 (+0.41%))
Cập nhật: 08-12-2025 12:03
podcast an sinh tong hop tuan 1 thang 122025

Podcast An sinh tổng hợp tuần 1 tháng 12/2025

Podcast có nội dung chính sau. Hàng nghìn thẻ BHYT được trao tặng cho bà con địa phương phía Nam; Bộ Tài chính lấy ý kiến dự toán thu, chi BHXH, BHYT năm 2026; Tăng cường phối hợp truyền thông chính sách BHXH, BHYT tại TP. Hồ Chí Minh; Thẻ BHYT của người hưởng lương hưu hoàn toàn được gia hạn tự động; Hà Nội hỗ trợ 100% BHYT cho nhiều nhóm yếu thế; Giả cán bộ phường, xã gọi điện cấp thẻ BHYT để lừa người dân.
video am long tu nghi quyet 562025nq hdnd den voi nguoi cao tuoi tp ho chi minh duoc ho tro bhyt

VIDEO: “Ấm lòng” từ Nghị quyết 56/2025/NQ-HĐND đến với người cao tuổi TP. Hồ Chí Minh được hỗ trợ BHYT

Nghị quyết 56/2025/NQ-HĐND của HĐND TP. Hồ Chí Minh vừa được ban hành đang mang lại niềm vui lớn cho hàng trăm nghìn người dân trên địa bàn thành phố. Chính sách hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế (BHYT) cho người từ đủ 65 đến dưới 75 tuổi và học sinh phổ thông đã và đang được triển khai gấp rút, tạo nên những hình ảnh hết sức ấm lòng tại các khu dân cư.
video bo sung 41 cua khau quoc te cho phep xuat nhap canh bang thi thuc dien tu

VIDEO: Bổ sung 41 cửa khẩu quốc tế cho phép xuất nhập cảnh bằng thị thực điện tử

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 389/NQ-CP ngày 02 tháng 12 năm 2025, quyết định bổ sung thêm 41 cửa khẩu quốc tế cho phép người nước ngoài nhập cảnh và xuất cảnh bằng thị thực điện tử (e-visa).
xay dung mo hinh tang truong moi dua tren tri thuc va cong nghe

Xây dựng mô hình tăng trưởng mới dựa trên trí thức và công nghệ

Ngày 5/12 tại Hà Nội, Diễn đàn Kinh tế - Tài chính Việt Nam 2025 diễn ra với chủ đề “Định vị Việt Nam trong bối cảnh mới và tầm nhìn chiến lược kinh tế - tài chính giai đoạn 2026-2030”. Sự kiện do Bộ Tài chính phối hợp với Tổ chức Hợp tác Quốc tế Đức GIZ và Văn phòng Dịch vụ Dự án Liên Hợp Quốc (UNOPS) đồng tổ chức, thu hút sự quan tâm của nhiều đại biểu trong nước và quốc tế.
emagazine kien tao dong luc moi cho tang truong dai han

EMAGAZINE: Kiến tạo động lực mới cho tăng trưởng dài hạn

Tại Diễn đàn Kinh tế - Tài chính 2025, các chuyên gia trong nước và quốc tế đã đưa ra nhiều phân tích sâu sắc về những xu hướng lớn định hình kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới. Từ yêu cầu nâng cao năng suất, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng tốc chuyển đổi xanh cho tới tái định hình không gian và động lực tăng trưởng, các khuyến nghị đều nhấn mạnh sự cấp thiết của cải cách toàn diện nhằm giúp Việt Nam củng cố sức chống chịu, duy trì đà tăng trưởng và nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu. Tạp chí Kinh tế - Tài chính ghi nhận những chia sẻ, phân tích và góc nhìn đáng chú ý được trình bày tại Diễn đàn.
EMAGAZINE: Kiến tạo động lực mới cho tăng trưởng dài hạn

EMAGAZINE: Kiến tạo động lực mới cho tăng trưởng dài hạn

Tại Diễn đàn Kinh tế - Tài chính 2025, các chuyên gia trong nước và quốc tế đã đưa ra nhiều phân tích sâu sắc về những xu hướng lớn định hình kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới. Từ yêu cầu nâng cao năng suất, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng tốc chuyển đổi xanh cho tới tái định hình không gian và động lực tăng trưởng, các khuyến nghị đều nhấn mạnh sự cấp thiết của cải cách toàn diện nhằm giúp Việt Nam củng cố sức chống chịu, duy trì đà tăng trưởng và nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu. Tạp chí Kinh tế - Tài chính ghi nhận những chia sẻ, phân tích và góc nhìn đáng chú ý được trình bày tại Diễn đàn.
Đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công những tháng cuối năm 2025

Đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công những tháng cuối năm 2025

Để tăng tốc, bứt phá, phấn đấu hoàn thành mục tiêu giải ngân 100% kế hoạch vốn đầu tư công, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Công điện số 237/CĐ-TTg ngày 6/12/2025 về việc đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công những tháng cuối năm 2025.
Khôi phục cấp điện hoàn toàn cho Phú Quốc

Khôi phục cấp điện hoàn toàn cho Phú Quốc

Đường dây 110kV trên không đã được đóng điện thành công, khôi phục cấp điện hoàn toàn cho Phú Quốc.
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài tăng trưởng đột phá

Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài tăng trưởng đột phá

Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài tăng trưởng đột phá với tổng vốn đầu tư cấp mới và điều chỉnh đạt 1,1 tỷ USD, tăng 83,9% so với cùng kỳ, vốn điều chỉnh trong 11 tháng tăng gấp 8,2 lần.
Vốn FDI thực hiện 11 tháng đạt mức cao nhất trong vòng 5 năm qua

Vốn FDI thực hiện 11 tháng đạt mức cao nhất trong vòng 5 năm qua

Cục Thống kê (Bộ Tài chính) vừa công bố những con số ấn tượng trong hoạt động thu hút vốn đầu tư nước ngoài 11 tháng năm 2025 với tổng vốn đăng ký đạt gần 33,7 tỷ USD, đặc biệt vốn thực hiện đạt 23,6 tỷ USD, là mức cao nhất của 11 tháng trong vòng 5 năm qua.
Giữ vững đà tăng trưởng, đảm bảo an sinh xã hội

Giữ vững đà tăng trưởng, đảm bảo an sinh xã hội

Thời gian từ nay đến hết năm không còn nhiều, nên các Bộ, ngành, địa phương thúc đẩy mạnh mẽ các động lực tăng trưởng mới; phấn đấu giải ngân 100% kế hoạch vốn đầu tư công; thu hút mạnh FDI, đầu tư tư nhân. Đồng thời, khẩn trương ban hành các Nghị định về thành lập, vận hành Trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam.
Cần xác định nhiệm vụ trọng tâm để thúc đẩy tăng trưởng

Cần xác định nhiệm vụ trọng tâm để thúc đẩy tăng trưởng

Trước những khó khăn, thách thức trong 11 tháng qua, các bộ, ngành, địa phương cần xác định nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm từng lĩnh vực cụ thể, đặc biệt là các giải pháp để giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng GDP năm 2025 từ 8% trở lên…
Vinh danh doanh nghiệp bền vững cùng hành trình CSI bồi đắp nội lực doanh nghiệp Việt

Vinh danh doanh nghiệp bền vững cùng hành trình CSI bồi đắp nội lực doanh nghiệp Việt

Lễ công bố các doanh nghiệp Bền vững tại Việt Nam 2025 với chủ đề “Chương mới của Kỷ nguyên Xanh” trong khuôn khổ Chương trình Đánh giá, Công bố Doanh nghiệp bền vững (CSI) tại Việt Nam do Hội đồng Doanh nghiệp vì sự phát triển bền vững Việt Nam - Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VBCSD-VCCI) chủ trì phối hợp Ban Chính sách Chiến lược Trung ương và các bộ hữu quan tổ chức đã diễn ra chiều 5/12 tại TP. Hà Nội. Phó Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Hội đồng quốc gia về phát triển bền vững Hồ Đức Phớc tham dự sự kiện.
26,343 tỷ đồng vốn viện trợ được kiến nghị bổ sung vào chi thường xuyên ngân sách 2025

26,343 tỷ đồng vốn viện trợ được kiến nghị bổ sung vào chi thường xuyên ngân sách 2025

Chính phủ đề xuất bổ sung 26,343 tỷ đồng vốn viện trợ không hoàn lại vào dự toán chi thường xuyên năm 2025. Số vốn này sẽ được phân bổ cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương nhằm đảm bảo tiến độ thực hiện các dự án, bảo đảm sử dụng đúng mục đích, hiệu quả và tuân thủ quy định của Luật Ngân sách nhà nước.
Đề xuất mở rộng cơ chế đặc thù giải quyết vướng mắc các dự án, đất đai trên toàn quốc

Đề xuất mở rộng cơ chế đặc thù giải quyết vướng mắc các dự án, đất đai trên toàn quốc

Chính phủ đề xuất mở rộng phạm vi áp dụng cơ chế đặc thù để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các dự án đất đai có kết luận thanh tra, kiểm tra, bản án trên toàn quốc. Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng, cơ chế này đã giúp tháo gỡ vướng mắc cho hàng nghìn dự án tồn đọng, góp phần khơi thông nguồn lực, thúc đẩy kinh tế phát triển, chống lãng phí.
Trình Quốc hội loạt cơ chế đặc thù để triển khai các dự án lớn tại Thủ đô

Trình Quốc hội loạt cơ chế đặc thù để triển khai các dự án lớn tại Thủ đô

Chính phủ vừa trình Quốc hội dự thảo Nghị quyết về những cơ chế, chính sách đặc thù để triển khai các dự án lớn tại địa bàn Thủ đô. Những cơ chế, chính sách này nhằm tháo gỡ điểm nghẽn thể chế, đẩy nhanh tiến độ các dự án quy mô lớn và huy động nguồn lực phát triển Thủ đô.
Công nghiệp An Giang duy trì đà tăng trưởng, tiếp tục là động lực kinh tế chủ lực

Công nghiệp An Giang duy trì đà tăng trưởng, tiếp tục là động lực kinh tế chủ lực

Công nghiệp An Giang đang ghi nhận nhiều tín hiệu khả quan, tiếp tục giữ vai trò là động lực trong tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
EMAGAZINE: Kiến tạo động lực mới cho tăng trưởng dài hạn

EMAGAZINE: Kiến tạo động lực mới cho tăng trưởng dài hạn

Tại Diễn đàn Kinh tế - Tài chính 2025, các chuyên gia trong nước và quốc tế đã đưa ra nhiều phân tích sâu sắc về những xu hướng lớn định hình kinh tế Việt Nam trong giai đoạn tới. Từ yêu cầu nâng cao năng suất, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tăng tốc chuyển đổi xanh cho tới tái định hình không gian và động lực tăng trưởng, các khuyến nghị đều nhấn mạnh sự cấp thiết của cải cách toàn diện nhằm giúp Việt Nam củng cố sức chống chịu, duy trì đà tăng trưởng và nâng cao vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu. Tạp chí Kinh tế - Tài chính ghi nhận những chia sẻ, phân tích và góc nhìn đáng chú ý được trình bày tại Diễn đàn.
Bộ Tài chính đề nghị rà soát, đề xuất danh mục ngành nghề ưu đãi đầu tư

Bộ Tài chính đề nghị rà soát, đề xuất danh mục ngành nghề ưu đãi đầu tư

Bộ Tài chính vừa có văn bản gửi các bộ, cơ quan ngang Bộ và cơ quan thuộc Chính phủ đề nghị rà soát và đề xuất danh mục ngành, nghề ưu đãi đầu tư và đặc biệt ưu đãi đầu tư nhằm phục vụ quá trình hoàn thiện Nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư (sửa đổi).
Chùm ảnh: Diễn đàn Kinh tế - Tài chính Việt Nam 2025

Chùm ảnh: Diễn đàn Kinh tế - Tài chính Việt Nam 2025

Ngày 5/12 tại TP. Hà Nội, Diễn đàn Kinh tế - Tài chính Việt Nam 2025 diễn ra với chủ đề “Định vị Việt Nam trong bối cảnh mới và tầm nhìn chiến lược kinh tế - tài chính giai đoạn 2026-2030”.
Petrovietnam: Tài sản một triệu tỷ đồng, nộp ngân sách 160.000 tỷ đồng mỗi năm

Petrovietnam: Tài sản một triệu tỷ đồng, nộp ngân sách 160.000 tỷ đồng mỗi năm

Với tổng tài sản hợp nhất vượt 1 triệu tỷ đồng và đóng góp bình quân 160 nghìn tỷ ngân sách mỗi năm, Petrovietnam tiếp tục được các chuyên gia đánh giá là hình mẫu doanh nghiệp Nhà nước hiệu quả, minh bạch và có sức cạnh tranh cao.