![]() |
| Ông Nguyễn Vân - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ TP. Hà Nội (Hansiba). |
Phóng viên: Ông đánh giá thế nào về khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp CNHT tại các địa phương?
Ông Nguyễn Vân: CNHT tại Việt Nam đã hình thành rõ nét hơn 10 năm qua, với dấu mốc là Nghị định số 111/2015/NĐ-CP ngày 3/11/2015 của Chính phủ về phát triển CNHT và sau đó là Nghị định số 205/2025/NĐ-CP ngày 14/7/2025 sửa đổi. Đây là hai khung chính sách lớn định hình hoạt động sản xuất, cung ứng vật liệu, linh kiện, thiết bị cho doanh nghiệp trong nước và khối FDI, qua đó giúp doanh nghiệp xác định đúng trọng tâm đầu tư, từ nguyên vật liệu đến linh phụ kiện.
Hiệp hội CNHT TP. Hà Nội hiện có hơn 300 doanh nghiệp thành viên, trong đó nhiều doanh nghiệp đã tham gia các chuỗi cung ứng phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu. Sự phát triển của CNHT gắn liền quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa, tạo điều kiện để doanh nghiệp nội địa cung cấp thiết bị, phụ tùng cho nhiều ngành sản xuất, kể cả các lĩnh vực cơ giới hóa, chế biến hay công thương tại địa phương.
Những điều chỉnh chính sách gần đây, đặc biệt trong định hướng nâng cao năng lực sản xuất, đã mở ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp CNHT. Lợi thế nổi bật nhất hiện nay nằm ở cơ khí – chế tạo máy, một lĩnh vực nền tảng của các chuỗi sản xuất hiện đại. Đây cũng là mảng mà doanh nghiệp Việt Nam đang có nhiều dư địa phát triển cả về thiết kế lẫn khả năng cung ứng thiết bị trọng yếu.
Phóng viên: Để khai thác hiệu quả các lợi thế này, theo ông cần ưu tiên tháo gỡ nút thắt nào?
Ông Nguyễn Vân: Điểm nghẽn lớn nhất vẫn là cơ chế chính sách. Theo tôi, cần vận hành hiệu quả mô hình liên kết "ba nhà" gồm: Nhà nước – doanh nghiệp – các chủ thể sản xuất. Nhà nước phải hoàn thiện hướng dẫn từ trung ương đến địa phương nhằm đảm bảo chính sách thông suốt, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận thị trường, đầu tư công nghệ và mở rộng liên kết.
Doanh nghiệp hiện có định hướng sản xuất rõ ràng nhưng chịu sức ép về thị trường và vốn đầu tư cho công nghệ. Trong khi đó, nhiều chủ thể sản xuất tại các địa phương – từ hợp tác xã đến hộ kinh doanh – thiếu khả năng tiếp cận đổi mới sáng tạo và kết nối với doanh nghiệp CNHT. Khi cơ chế liên kết được vận hành hiệu quả, doanh nghiệp CNHT sẽ có điều kiện đưa thiết bị, dây chuyền chế biến sâu vào phục vụ sản xuất; đồng thời giúp các cơ sở sản xuất tiếp cận công nghệ phù hợp, mở rộng thị trường và nâng cao năng suất.
Địa phương cần chủ động hơn trong việc tạo diễn đàn kết nối doanh nghiệp CNHT với vùng sản xuất, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan trung ương, sở ngành và đơn vị xúc tiến thương mại. Khi mạng lưới này mở rộng, doanh nghiệp CNHT có thể đưa máy móc, công nghệ vào hỗ trợ cải tiến quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Xu hướng dịch chuyển đầu tư về các vùng ven và ngoại thành cũng là cơ hội để hình thành cụm công nghiệp gắn với chuỗi sản xuất lớn, với điều kiện có quy hoạch rõ ràng, tránh tình trạng sản xuất manh mún.
![]() |
| Nhiều doanh nghiệp CNHT đã tham gia các chuỗi cung ứng phục vụ sản xuất trong nước và xuất khẩu. Ảnh: HD |
Phóng viên: Từ kinh nghiệm thực tiễn, ông có thể chia sẻ mô hình liên kết nào cho thấy vai trò của CNHT trong thúc đẩy sản xuất và mở rộng hợp tác?
Ông Nguyễn Vân: Một ví dụ rõ nét là từ năm 2015, khi Hansiba đồng hành cùng Tập đoàn N&G triển khai Khu CNHT Nam Hà Nội tại huyện Phú Xuyên. Trong chuyến công tác Nhật Bản cùng đoàn công tác của TP. Hà Nội, chúng tôi đã khảo sát một tổ hợp sản xuất thiết bị nông nghiệp công nghệ cao – nơi các doanh nghiệp Nhật Bản sản xuất linh kiện và xuất khẩu sang nhiều thị trường phát triển.
Từ tiếp cận thực tế đó, Hiệp hội phối hợp các doanh nghiệp trong nước khảo sát nhu cầu tại các trang trại, cơ sở sản xuất, từ đó hình thành ngay một chuỗi cung ứng thiết bị với sự kết nối của Sở Nông nghiệp và Môi trường TP. Hà Nội. Sau đó, nhiều doanh nghiệp Nhật Bản tiếp tục sang Việt Nam tìm kiếm cơ hội đầu tư và hợp tác với doanh nghiệp trong Hiệp hội để cải tiến thiết bị phục vụ sản xuất. Đây là ví dụ điển hình cho thấy khi kết nối đúng, doanh nghiệp CNHT có thể nhanh chóng lan tỏa công nghệ, thúc đẩy sản xuất và mở rộng hợp tác theo chiều sâu.
Có thể thấy, nếu doanh nghiệp CNHT đứng vai trò trung tâm đảm trách công nghệ, dây chuyền, tiêu chuẩn kỹ thuật, còn các cơ sở sản xuất tập trung vào sản phẩm và thị trường, thì mô hình sẽ bền vững và có khả năng nhân rộng. Sự lan tỏa của CNHT trong trường hợp này không chỉ giúp tiết giảm chi phí, nâng cao chất lượng, mà còn tạo sự liên kết chặt chẽ giữa các mắt xích của chuỗi sản xuất.
Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn ông!












