Giảm nghèo bền vững: Thách thức từ năng lực tổ chức thực hiện

Hoàng Minh

Việt Nam đạt nhiều thành tựu giảm nghèo, song thách thức lớn nhất hiện nay nằm ở khâu tổ chức thực hiện tại cơ sở và tâm lý ỷ lại của một bộ phận người dân.

Ở đâu có người nghèo, ở đó có sự hiện diện của chủ trương, chính sách và các chương trình mục tiêu quốc gia.
Ở đâu có người nghèo, ở đó có sự hiện diện của chủ trương, chính sách và các chương trình mục tiêu quốc gia.

Không ít “điểm nghẽn” bền vững

Theo PGS.TS. Bùi Thị An - Chủ tịch Hội Nữ trí thức Hà Nội, Đại biểu Quốc hội khóa XIII, bức tranh giảm nghèo của Việt Nam trong 3 thập kỷ qua cho thấy những bước tiến vượt bậc. Nếu năm 1993, tỷ lệ hộ nghèo còn ở mức khoảng 58%, thì đến năm 2015, con số này đã giảm xuống dưới 10%. Thành tựu này phản ánh quyết tâm chính trị mạnh mẽ, sự đồng hành của Quốc hội, Chính phủ cùng hệ thống chính quyền các cấp.

“Ở đâu có người nghèo, ở đó có sự hiện diện của chủ trương, chính sách và các chương trình mục tiêu quốc gia”, PGS.TS. Bùi Thị An nhấn mạnh.

Không chỉ dừng lại ở tỷ lệ nghèo, khả năng tiếp cận các dịch vụ cơ bản của người dân cũng đã được cải thiện rõ rệt, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa. Giáo dục, y tế, thông tin - những yếu tố nền tảng cho phát triển con người - đã đến gần hơn với các nhóm yếu thế. Nỗ lực này nhiều lần được Liên Hợp Quốc và cộng đồng quốc tế ghi nhận.

Tuy nhiên, theo PGS.TS. Bùi Thị An, thách thức lớn nhất hiện nay là tính bền vững. Việt Nam giảm nghèo nhanh, nhưng tình trạng tái nghèo và phát sinh nghèo mới vẫn tồn tại. Những cú sốc thiên tai, dịch bệnh, biến động kinh tế toàn cầu có thể xóa sạch thành quả mà người dân tích lũy trong nhiều năm. Giảm nghèo vì vậy không chỉ là kết quả nhất thời, mà là một quá trình dài hạn, gắn liền với khả năng chống chịu và thích ứng của từng cộng đồng.

Về phương thức hỗ trợ, nhiều chính sách vẫn còn nặng về tính bao cấp. Hình ảnh “cho con cá” thay vì “cho cần câu” được nhắc đến thường xuyên, song theo bà An, vấn đề không chỉ là trao “cần câu” mà còn phải hướng dẫn “cách câu” hiệu quả.

“Giống như dạy con tập bơi, không thể đỡ con suốt cả dòng sông, phải có lúc buông tay để con tự bơi. Tinh thần tự lực, tự vươn lên của một bộ phận người dân vẫn còn hạn chế”, PGS.TS. Bùi Thị An phân tích.

Điểm nghẽn lớn nhất, theo PGS.TS. Bùi Thị An, chính là khâu tổ chức thực hiện ở cơ sở. Chủ trương, chính sách từ trung ương đã rõ ràng, nhưng để biến thành hiện thực cần những cán bộ có kiến thức, năng lực và tầm nhìn. Một cán bộ xã, thôn không chỉ cần nhiệt tình, mà còn phải hiểu biết kinh tế nông thôn, am hiểu thổ nhưỡng, địa chất để tư vấn “trồng cây gì, nuôi con gì”, đồng thời nắm bắt thị trường để tránh tình trạng “được mùa rớt giá”.

Để khắc phục, Nhà nước cần thay đổi tiêu chí lựa chọn, bồi dưỡng cán bộ cơ sở, đồng thời có chính sách đãi ngộ đặc biệt để thu hút nhân lực chất lượng cao về địa phương. Khi đội ngũ cán bộ vững về chuyên môn, giỏi về thực tiễn, họ không chỉ thực thi chính sách hiệu quả mà còn truyền cảm hứng, khơi dậy tinh thần tự lực của người dân.

Huy động nguồn lực và thực chất hóa chính sách

Theo PGS.TS Bùi Thị An, để giảm nghèo bền vững, Nhà nước không thể chỉ dựa vào ngân sách. Nguồn lực công dù lớn đến đâu cũng có giới hạn. Do đó, huy động khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội tham gia là tất yếu.

“Nhà nước không thể làm một mình”, PGS.TS Bùi Thị An nhấn mạnh.

Chìa khóa nằm ở cơ chế chính sách đủ mạnh và minh bạch để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào các vùng nghèo. PGS.TS Bùi Thị An cho rằng, cần có ưu đãi cụ thể, như miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, tiền thuê đất dài hạn, hỗ trợ tín dụng lãi suất thấp, phát triển hạ tầng và đào tạo lao động. “Vùng nào càng khó khăn thì ưu đãi càng phải lớn”, bà đề xuất.

Khi doanh nghiệp phát triển, việc làm được tạo ra, thu nhập người dân tăng lên, kinh tế địa phương phát triển. Đây là mối quan hệ cộng sinh: Nhà nước “mồi vốn” bằng chính sách, doanh nghiệp sinh lợi, cộng đồng hưởng lợi, và toàn xã hội đồng thuận.

PGS.TS Bùi Thị An cũng nhấn mạnh ba ưu tiên chính sách trong nhiệm kỳ tới. Thứ nhất, chính sách cần cụ thể hóa theo từng vùng miền, phù hợp với đặc thù địa phương. Thứ hai, công tác giám sát phải thực chất, không chỉ dựa vào báo cáo mà cần “đi đến nơi, về đến chốn”, đảm bảo đồng vốn ngân sách sử dụng hiệu quả. Thứ ba, cần tăng cường minh bạch và chia sẻ kinh nghiệm, công khai mô hình thành công để nhân rộng, tạo động lực cạnh tranh lành mạnh giữa các địa phương.

Một điểm quan trọng khác là vai trò của đại biểu dân cử. Các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân chính là “cầu nối” giữa chính sách và cuộc sống. Họ phải gần dân, hiểu dân, lắng nghe dân một cách thực chất và giám sát chặt chẽ việc thực thi chính sách.

“Chúng ta cần một văn hóa làm thật, kiểm tra thật, chống lại bệnh thành tích. Người dân cũng cần có cơ chế đánh giá thực chất cam kết và hành động của những người đại diện cho mình”, PGS.TS Bùi Thị An nhấn mạnh.