Cải cách tài chính công hướng đến tăng trưởng cao trong kỷ nguyên mới
TS. Lê Thị Thùy Vân
Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Kinh tế - Tài chính (Bộ Tài chính) Email: Email: lethithuyvan@mof.gov.vn
Tóm tắt
Trong bối cảnh các động lực tăng trưởng truyền thống đang dần suy giảm, việc khơi thông các động lực then chốt cần được kết hợp với những giải pháp mang tính đột phá để đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Trong đó, cải cách thể chế, mà trọng tâm là cải cách tài chính công sẽ là một trong những trụ cột để nâng cao hiệu quả huy động và phân bổ các nguồn lực tài chính, thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao trong kỷ nguyên mới.
Từ khóa: Cải cách tài chính công, tăng trưởng cao, thu ngân sách nhà nước, chi ngân sách nhà nước, quản lý nợ công
Summary
Amid the gradual decline of traditional drivers of economic growth, unlocking critical growth drivers should be combined with breakthrough solutions to accelerate economic development. Institutional reform, with a particular emphasis on public financial reform, will serve as a fundamental pillar in enhancing the efficiency of mobilizing and allocating financial resources, thereby supporting the achievement of high economic growth in the new era.
Keywords: Public financial reform, high growth, state budget revenue, state budget expenditure, public debt management
Tăng trưởng cao và vai trò của cải cách tài chính công
Bối cảnh quốc tế đang có xu hướng diễn biến nhanh, có nhiều vấn đề chưa có tiền lệ, vượt ngoài dự báo, đặc biệt khi kinh tế thế giới diễn biến phức tạp hơn dưới sự tác động bởi chính sách thuế quan bất định của Mỹ trong năm 2025. Các cuộc chiến tranh thương mại, những biện pháp thuế quan, rào cản kỹ thuật giữa các nền kinh tế lớn ngày càng gay gắt, tác động trực tiếp đến chuỗi cung ứng, dòng chảy thương mại và đầu tư quốc tế. Trong khi các cuộc xung đột vũ trang kéo dài tại nhiều khu vực, tiêu biểu là xung đột Nga - Ukraine, tình hình căng thẳng tại Trung Đông, các điểm nóng an ninh trên thế giới tiếp tục gia tăng, đe dọa ổn định toàn cầu, thì các vấn đề an ninh phi truyền thống, đặc biệt là dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu, an ninh nguồn nước, an ninh lương thực, an ninh năng lượng… tiếp tục diễn biến khó lường, ảnh hưởng nặng nề đến nhiều quốc gia, khu vực.
Trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, thách thức đó, kinh tế trong nước đã đạt được nhiều kết quả khả quan, tích cực. Tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức khá cao so với khu vực và thế giới, quy mô GDP từ 346 tỷ USD năm 2020 (xếp thứ 37 trên thế giới) tăng lên 476 tỷ USD năm 2024, dự kiến trên 510 tỷ USD năm 2025, xếp thứ 32 thế giới và thứ 4 trong khu vực ASEAN. Quy mô thương mại không ngừng tăng lên, xếp thứ 20 thế giới. Thu nhập quốc dân (GNI) bình quân đầu người được dự báo đạt khoảng 4.750 USD vào năm 2025, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Trong 6 tháng đầu năm 2025, tăng trưởng GDP đạt mức 7,52%, mức cao nhất cùng kỳ giai đoạn 2011-2025, đưa Việt Nam vào nhóm tăng trưởng cao nhất trên thế giới và khu vực. Các cân đối vĩ mô được ổn định; lạm phát được kiểm soát dưới mức mục tiêu, đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng mạnh cả về vốn đăng ký và giải ngân; nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài được kiểm soát tốt, thấp hơn nhiều so với mức cảnh báo; chính sách tài khóa trở thành “trụ cột” dẫn dắt tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh dư địa chính sách tiền tệ bị thu hẹp.
Tiếp tục đà tăng trưởng của 6 tháng đầu năm 2025, mục tiêu tăng trưởng cả năm 2025 được kỳ vọng ở mức 8,3-8,5%, để tạo đà để đạt mức hai chữ số trong giai đoạn 2026-2030. Theo đó, quy mô GDP năm 2025 sẽ khoảng trên 510 tỷ USD, GDP bình quân đầu người khoảng trên 5.020 USD. Nếu duy trì được tốc độ tăng trưởng “hai con số” một cách ổn định, đến năm 2045, quy mô nền kinh tế Việt Nam có thể tăng gấp 4 lần so với hiện tại. Điều này đồng nghĩa với việc Việt Nam sẽ hoàn thành quá trình chuyển đổi từ một quốc gia có thu nhập thấp, bước vào nhóm thu nhập trung bình vào năm 2025, đạt ngưỡng thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và tiến đến mức thu nhập cao vào năm 2045. Đây không chỉ là 1 mục tiêu kinh tế đơn thuần mà còn là động lực quan trọng để Việt Nam tạo ra những thay đổi mang tính nền tảng, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mạnh mẽ với vị thế mới.
Trong bối cảnh mô hình phát triển dựa trên thâm dụng lao động và tài nguyên ngày càng hạn hẹp, năng suất lao động vẫn là một điểm nghẽn; hạ tầng kinh tế - xã hội (KT-XH) chưa đồng bộ; chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn hiện hữu, việc xác định các động lực then chốt để tạo bức phá cho năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế là cần thiết.
Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế là đổi mới phương thức huy động, phân bổ, sử dụng các nguồn lực theo hướng hợp lý và hiệu quả; chuyển cách thức tăng trưởng theo chiều rộng từ dựa chủ yếu vào tăng vốn, lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên thiên nhiên sang tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu chủ yếu dựa vào sử dụng hiệu quả nguồn lực, tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo. Trong đó, cùng với các động lực then chốt như ưu tiên phát triển khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế tư nhân, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thì cải cách thể chế sẽ là một động lực mở đường để giải quyết các điểm nghẽn của nền kinh tế. Trong đó, phát huy vai trò huyết mạch của nền kinh tế, cải cách tài chính công tiếp tục đóng vai trò khơi thông, tạo đà cho tăng trưởng cao ở Việt Nam trong giai đoạn 2026-2030.
Trong bối cảnh kỷ nguyên mới với những yêu cầu phát triển nhanh, bền vững và toàn diện, cải cách tài chính công không chỉ là nhu cầu cấp thiết mà còn là động lực then chốt để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và khơi thông các nguồn lực phát triển. Cải cách tài chính công cần được xem như một quá trình liên tục, đồng bộ, toàn diện - đóng vai trò then chốt trong việc hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Đổi mới thể chế, chính sách quản lý tài chính công
Trong những năm qua, thể chế, chính sách quản lý tài chính công đã được đổi mới tích cực, ngày càng minh bạch, hiệu quả, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế đất nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh, thúc đẩy hội nhập và nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Thể chế tài chính - ngân sách nhà nước (NSNN) tiếp tục được hoàn thiện theo nguyên tắc thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và phát triển. Quá trình cải cách thể chế trong lĩnh vực tài chính công đã dần đồng bộ với cải cách thể chế trong các lĩnh vực có liên quan, góp phần thúc đẩy các yếu tố thị trường và các loại thị trường phát triển, bảo đảm quyền tự do kinh doanh và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; động viên hợp lý, phân phối và sử dụng tiết kiệm, chặt chẽ, hiệu quả hơn các nguồn lực cho phát triển KT-XH; nâng cao kỷ luật, kỷ cương tài chính - ngân sách; tiếp cận thông lệ quốc tế…
Trong giai đoạn 2021-2025 (đến cuối tháng 5/2025), trong lĩnh vực tài chính, đã có 12 Luật, Nghị quyết được Quốc Hội thông qua; 20 Nghị quyết được Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua; 168 Nghị định được Chính phủ ban hành; 27 Quyết định được Thủ tướng Chính phủ thông qua và 436 Thông tư được ban hành theo thẩm quyền của Bộ Tài chính. Trong tháng 6/2025, Quốc Hội đã thông qua Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt (sửa đổi), Luật Quản lý và Đầu tư vốn nhà nước tại Doanh nghiệp, Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN) sửa đổi nhằm tạo hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch hơn, góp phần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, khuyến khích doanh nghiệp phát triển. Luật Ngân sách Nhà nước (NSNN) sửa đổi được Quốc hội thông qua có phạm vi tác động đến các ngành, lĩnh vực và các địa phương, góp phần quan trọng thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong kỷ nguyên mới.
Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 57- NQ/TW đã xác định chỉ tiêu chi ngân sách hằng năm cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia phải đạt tối thiểu 3% tổng chi NSNN và tăng dần theo yêu cầu phát triển. Theo đó, Bộ Tài chính là cơ quan chủ trì thực hiện một số nhiệm vụ như: Sửa đổi một số quy định trong Luật NSNN để có quy định phù hợp với đặc thù và thông lệ quốc tế trong lập dự toán, quyết toán, tài trợ và sử dụng NSNN thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ; Rà soát để sửa đổi một số quy định trong Luật Thuế TNDN; Luật Thuế thu nhập cá nhân; Luật Thuế giá trị gia tăng (GTGT); Luật Thuế xuất khẩu, nhập khẩu để thúc đẩy doanh nghiệp đầu tư cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và đào tạo nhân lực; thu hút cá nhân hoạt động khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
![]() |
Nguồn: Bộ Tài chính |
![]() |
| Nguồn: Bộ Tài chính |
Chính sách huy động NSNN tiếp tục được sửa đổi, hoàn thiện bám sát các mục tiêu, định hướng đề ra, qua đó, đã động viên hợp lý, kịp thời các nguồn lực từ sản xuất và từ tài nguyên, đất đai. Các chính sách thuế, phí, lệ phí được ban hành về cơ bản đã đảm bảo minh bạch, phù hợp với các cam kết quốc tế, góp phần tạo môi trường đầu tư ổn định, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Luật Thuế GTGT hoàn thiện quy định về thuế GTGT để bao quát toàn bộ các nguồn thu; bảo đảm tính minh bạch, dễ hiểu, dễ thực hiện để góp phần nâng cao năng lực và hiệu quả của hoạt động quản lý thuế trong phòng, chống trốn thuế, thất thu và nợ thuế; đảm bảo thu đúng thu đủ vào NSNN, đảm bảo ổn định nguồn thu NSNN. Đồng thời, các giải pháp hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh như giảm thuế GTGT, giảm thuế bảo vệ môi trường, gia hạn, giảm một số loại thuế, phí được ban hành và tích cực triển khai trong thực tiễn. Với các những nỗ lực trong cải cách thể chế, chính sách thu NSNN, dự kiến thu NSNN cả giai đoạn 2021-2025 ước đạt 9,4 triệu tỷ đồng, vượt mục tiêu đề ra là 8,3 triệu tỷ đồng, gấp 1,36 lần so với kết quả thực hiện giai đoạn 2016-2020. Tỷ lệ huy động vào NSNN đạt trên 18%GDP, trong đó từ thuế, phí khoảng 14,8%GDP, đều đạt mục tiêu đề ra tại Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội (mục tiêu lần lượt là 16%GDP và 13-14%GDP).
Cơ chế quản lý, phân bổ NSNN được hoàn thiện, đổi mới theo hướng bảo đảm vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương và chủ động, tích cực của ngân sách địa phương. Luật số 56/2024/QH15 sửa đổi, bổ sung 9 luật, trong đó có Luật NSNN tập trung giải quyết những vướng mắc, điểm nghẽn về cơ chế phân bổ, huy động nguồn lực NSNN nhằm huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài chính nhà nước cho tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, bổ sung cơ chế cho phép sử dụng vốn đầu tư phát triển của địa phương để hỗ trợ ngân sách trung ương, các địa phương khác đầu tư dự án hạ tầng có tính chất vùng và liên vùng. Từ đó, tạo ra nguồn lực tổng thể, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả trung ương và địa phương để đẩy nhanh tiến độ đầu tư các dự án hạ tầng trọng điểm, đóng góp vào sự phát triển của KT-XH của cả nước.
Chính sách chi NSNN đã được thực hiện theo hướng tiết kiệm, chặt chẽ, hiệu quả, ưu tiên nguồn lực cho đầu tư phát triển tạo động lực cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, nhiều cơ chế, chính sách đặc thù (bao gồm chính sách tài chính - ngân sách) được ưu tiên mở rộng tạo đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; đảm bảo nguồn lực thực hiện chính sách, chế độ đối với cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và lực lượng vũ trang trong thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Kết quả, tổng chi NSNN trong giai đoạn 2021-2025 ước đạt 10,4 triệu tỷ đồng, đạt mục tiêu kế hoạch 5 năm tại Nghị quyết số 23/2021/ QH15 (khoảng 10,26 triệu tỷ đồng); bảo đảm nguồn lực thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng phát triển KT-XH, bảo đảm quốc phòng, an sinh xã hội. Tỷ trọng bố trí dự toán chi đầu tư phát triển đã tăng từ mức 28,3% năm 2021 lên mức 31% năm 2025; đồng thời, đã giảm dần tỷ trọng dự toán chi thường xuyên hằng năm, năm 2025 xuống dưới 60% theo đúng mục tiêu tại Nghị quyết số 23/2021/ QH15 của Quốc hội.
Về cân đối NSNN và quản lý nợ công, trong bối cảnh kinh tế phát triển không thuận lợi, tăng trưởng không ổn định, ảnh hưởng đến thu NSNN cũng như áp lực tăng chi NSNN để phục hồi và ổn định kinh tế vĩ mô và tăng khả năng huy động nguồn lực cho đầu tư phát triển, nên những năm qua, Việt Nam đã chủ động điều hành bội chi NSNN theo hướng linh hoạt, chấp nhận bội chi cao ở một số thời điểm để có thêm nguồn lực cho đầu tư phát triển và hỗ trợ tổng cầu. Đồng thời, chủ động thực hiện một số biện pháp để giảm mức bội chi tăng cao như ưu tiên sử dụng một số khoản tăng thu để giảm bội chi NSNN… Kết quả, bình quân các năm 2021-2025, bội chi NSNN ở mức 3,3-3,4%GDP, giảm so với giai đoạn 2016-2020 (3,45%) và đạt mục tiêu kế hoạch (không quá 3,7%GDP). Chính sách trong lĩnh vực quản lý nợ công được hoàn thiện và đổi mới, từng bước tiếp cận các thông lệ quốc tế, đảm bảo nền tài chính quốc gia an toàn, bền vững, mục tiêu đặt ra là đảm bảo nhiệm vụ huy động vốn vay để đáp ứng nhu cầu cân đối NSNN và phát triển KT-XH với mức độ chi phí - rủi ro phù hợp; kiểm soát chặt chẽ các chỉ tiêu an toàn nợ trong mức trần, ngưỡng an toàn được cấp có thẩm quyền phê duyệt trong từng thời kỳ; thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn trong nước, nâng cao hiệu quả huy động và phân bổ nguồn lực phục vụ cho mục tiêu tăng trưởng cao trong giai đoạn 2026-2030.
Một số khó khăn, thách thức
Bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn một số khó khăn, thách thức trong quá trình hoàn thiện thể chế tài chính công. Cơ cấu thu NSNN từ thuế còn dựa nhiều vào các sắc thuế như thuế GTGT, thuế TNDN; tốc độ tăng thu nội địa chưa ổn định do trong những năm vừa qua, kinh tế vẫn còn nhiều khó khăn, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tỷ trọng thu nội địa đến năm 2025 ước đạt trên 85% tổng thu NSNN, nhưng tính chung bình quân cả giai đoạn 5 năm mới đạt 83%, gần tiệm cận mức mục tiêu theo Nghị quyết số 23/2021/QH15 của Quốc hội (85-86%). Điều này chủ yếu xuất phát từ nguyên nhân khách quan do trong giai đoạn 2021- 2025 nền kinh tế chịu tác động, ảnh hưởng nặng nề bởi dịch COVID-19 (nhất là trong vòng 02 năm đầu của giai đoạn) cũng như các yếu tố khách quan bên ngoài (xung đột địa chính trị, căng thẳng thương mại...). Đồng thời, thương mại điện tử phát triển dẫn đến sự ra đời nhiều loại hình dịch vụ, đặt ra nhiều thách thức với cơ quan thuế trong việc xác định bản chất giao dịch, vai trò của từng bên tham gia giao dịch, doanh thu, chi phí, thu nhập, cơ sở thường trú để vừa quản lý thu thuế phát sinh với hoạt động này, vừa để tạo công bằng trong môi trường kinh doanh cũng như tạo thuận lợi cho loại hình kinh doanh này phát triển.
Trong khi đó, áp lực chi NSNN cho các nhiệm vụ phục hồi, phát triển kinh tế và ổn định đời sống người dân vẫn còn lớn. Công tác triển khai dự toán chi thường xuyên, phân bổ chi tiết kế hoạch đôi lúc còn chậm do thường phát sinh nhiều yếu tố không thuận lợi, nhất là tình hình thiên tai, bão lũ diễn biến bất thường, ảnh hưởng đến việc điều hành nhiệm vụ NSNN.
Ngoài ra, nhiệm vụ đặt ra đối với công tác quản lý nợ công trong thời gian tới còn nhiều thách thức. Áp lực vay tăng, điều kiện thị trường vốn quốc tế và trong nước không thuận lợi dẫn đến mặt bằng lãi suất tăng, biến động các ngoại tệ mạnh cũng gây sức ép giảm giá đồng Việt Nam, ảnh hưởng nghĩa vụ trả nợ, đặc biệt đối với nợ bằng USD và rủi ro cho việc thực hiện các chỉ tiêu an toàn nợ công, nợ nước ngoài quốc gia. Việc huy động, sử dụng nguồn vốn ngoài nước ngày càng khó khăn, chậm hơn so với dự kiến do sự khác biệt ngày càng tăng giữa quy định của nhà tài trợ và quy định pháp luật trong nước, nhất là về vấn đề thuế, quyền miễn trừ đối với bên cho vay, đấu thầu, đền bù, tái định cư, tiêu chuẩn môi trường xã hội...
Giải pháp cải cách tài chính công hướng đến tăng trưởng cao trong kỷ nguyên mới
Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, phồn vinh, hạnh phúc với ưu tiên hàng đầu là đạt được các mục tiêu chiến lược đến năm 2030 trở thành nước đang phát triển với công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao. Cùng với đó, Việt Nam quyết tâm phấn đấu đạt mức tăng trưởng đạt 8% trở lên trong năm 2025; giai đoạn 2026-2030 đạt tốc độ tăng trưởng 2 con số.
Chiến lược Tài chính đến năm 2030 đã đặt ra mục tiêu xây dựng nền tài chính quốc gia phát triển bền vững, hiện đại và hội nhập, điều hành chính sách tài khóa linh hoạt, phối hợp nhịp nhàng cùng chính sách tiền tệ và các chính sách vĩ mô khác góp phần phát triển KT-XH đất nước. Trong đó, đặc biệt chú trọng xây dựng các chính sách tài chính để khơi thông nguồn lực đáp ứng nhu cầu về tăng chi đầu tư phát triển, thực hiện các mục tiêu quan trọng, các dự án trọng điểm để phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.
Để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, góp phần hiện thực hóa khát vọng đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, cần có những đột phá mạnh mẽ về thể chế, tiếp tục hoàn thiện đồng bộ và tháo gỡ những khó khăn, thách thức trong lĩnh vực tài chính, ngân sách. Theo đó, quá trình cải cách tài chính công nên ưu tiên tập trung vào các trọng tâm sau:
Một là, đổi mới, hoàn thiện thể chế quản lý tài chính công nhằm nâng cao hiệu quả phân bổ, quản lý, sử dụng nguồn lực tài chính công theo hướng nâng cao hiệu quả quản lý, phân bổ, sử dụng NSNN, siết chặt kỷ luật, kỷ cương tài chính; tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại chi NSNN gắn với các mục tiêu về tái cơ cấu nền kinh tế, phát triển bền vững. Ưu tiên nguồn lực bố trí cho các nhiệm vụ quan trọng, cấp bách của Nhà nước, các công trình trọng điểm quốc gia, các công trình có tính thúc đẩy phát triển KT-XH liên vùng… Ưu tiên bố trí nguồn lực của NSNN cả trung ương và địa phương thực hiện các công trình kết nối các tỉnh, kết nối vùng, kết nối quốc gia, quốc tế, nhất là kết nối các trung tâm kinh tế và các địa phương là cực tăng trưởng.
Hai là, cải thiện vai trò dẫn dắt, vốn mồi của nguồn lực NSNN; thực hiện đột phá xây dựng kết cấu hạ tầng và đô thị đồng bộ, hiện đại, xanh và thân thiện với môi trường. Tập trung cao hơn các nguồn lực cho thích ứng với biến đổi khí hậu, phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông, xây dựng, kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia, tạo nền tảng chuyển đổi số quốc gia. Tập trung phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số; phát triển kinh tế theo chiều sâu, có giá trị gia tăng cao, tạo môi trường bình đẳng, thuận lợi, lành mạnh trong khu vực kinh tế tư nhân, đổi mới khu vực kinh tế nhà nước.
Ba là, nghiên cứu, thực hiện cơ chế quản lý, phân bổ, sử dụng vốn, nhất là vốn đầu tư công hợp lý, hiệu quả để phù hợp với khả năng cân đối vốn NSNN; tập trung phân bổ chi tiết, giải ngân vốn đầu tư công, nhất là các công trình, dự án trọng điểm; đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải ngân vốn đầu tư công, kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong giải ngân đầu tư công, trong đó có vướng mắc về đất đai, giải phóng mặt bằng.
Bốn là, đổi mới chính sách thu NSNN theo hướng tiếp tục hoàn thiện hệ thống thu, cơ cấu lại thu, đảm bảo nguồn ngân sách bền vững, thực hiện các mục tiêu phát triển KT-XH, an ninh, quốc phòng, tiến bộ công bằng xã hội; đẩy mạnh chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý thuế, tăng cường quản lý thu các giao dịch thương mại điện tử. Kết nối đồng bộ cơ sở thông tin dữ liệu ngành thuế với hệ thống dữ liệu của các cơ quan quản lý nhà nước khác để tăng cường hiệu quả quản lý nguồn thu.
Năm là, mở rộng cơ sở thuế, áp dụng mức thuế suất hợp lý, đảm bảo công bằng, bình đẳng về thuế giữa các đối tượng nộp thuế; phù hợp với các cam kết quốc tế, tạo môi trường sản xuất kinh doanh cạnh tranh và thúc đẩy đầu tư, đảm bảo lợi ích quốc gia, tạo điều kiện cho người nộp thuế tích tụ, khuyến khích sản xuất kinh doanh phát triển. Cân đối hợp lý nguồn thu từ thuế, phí cho chi thường xuyên, góp phần tích lũy nguồn lực cho chi đầu tư phát triển, đảm bảo nhu cầu chi tiêu cần thiết và hợp lý theo chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.
Sáu là, quản lý, kiểm soát hiệu quả bội chi, nợ công, các nghĩa vụ nợ dự phòng của NSNN, nợ của chính quyền địa phương, đảm bảo an ninh an toàn tài chính quốc gia, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Kiểm soát hiệu quả nợ công, đảm bảo các chỉ tiêu trong giới hạn an toàn nợ theo quy định; bám sát các nghị quyết, chủ trương của Đảng, Quốc hội, Chính phủ về Kế hoạch tài chính quốc gia và vay, trả nợ công 5 năm, hàng năm. Nâng cao hiệu quả quản lý rủi ro đối với nợ công thông qua đa dạng hóa nguồn vốn và phương thức vay trong nước và nước ngoài, giảm áp lực huy động vốn vay, góp phần giảm gánh nặng nợ; sử dụng có hiệu quả nguồn lực đầu tư công (đặc biệt là các dự án vốn ngoài nước, các dự án trọng điểm) theo tiến độ vốn vay và trái phiếu chính phủ mà Chính phủ huy động theo Kế hoạch vay, trả nợ công 5 năm cũng như Chương trình phục hồi và phát triển KT-XH.
Tài liệu tham khảo:
1. Tổng Bí thư Tô Lâm (2024). Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Tạp chí Cộngsản.
2. Quốc hội (2025). Nghị quyết số 192/2025/QH15 về bổ sung Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025 với mục tiêu tăng trưởng đạt 8% trở lên.
3. Bộ Tài chính (2025). Báo cáo Tổng kết công tác nhiệm kỳ 2021-2026.
4. Lê Thị Thùy Vân (2023). “Chính sách tài khóa tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế”. Tạp chí Tài chính, số tháng 8/2023.
| Ngày nhận bài: 10/7/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 22/7/2025; Ngày duyệt đăng: 31/7/2025 |
Tin tức khác
ACCA giới thiệu bộ thuật ngữ chuẩn mực bền vững theo IFRS
TP. Hồ Chí Minh: Xử phạt hành chính 36 doanh nghiệp chậm đóng bảo hiểm xã hội
MB triển khai thẻ MB Visa Hi BIZ cho doanh nghiệp trong nước
Chính sách tài khóa tạo động lực tăng trưởng cho nền kinh tế
Vietcombank giữ vững vị thế Ngân hàng có môi trường làm việc tốt nhất Việt Nam
TP. Hồ Chí Minh: Gần 20.000 doanh nghiệp chậm đóng bảo hiểm xã hội
VPBank thanh lý tài sản đảm bảo, giá thấp hơn thị trường 10-20%
MultiMedia
VIDEO: Ban Chỉ đạo 389 phát lệnh tổng tấn công buôn lậu, hàng giả dịp Tết Bính Ngọ 2026
INFOGRAPHIC: 6 nhóm hàng xuất khẩu "chục tỷ đô" của doanh nghiệp FDI
VIDEO: Bộ Tài chính đề xuất nâng mức doanh thu miễn thuế lên 500 triệu đồng/năm
INFOGRAPHIC: Chương trình 1719 tại tỉnh Lào Cai: 5 năm bứt phá, chuyển biến toàn diện
INFOGRAPHIC: Chương trình Mục tiêu quốc gia 1719 giai đoạn II (2026–2030): Trao quyền cho địa phương, tạo bứt phá từ vùng lõi nghèo
Khôi phục cấp điện hoàn toàn cho Phú Quốc
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài tăng trưởng đột phá
Vốn FDI thực hiện 11 tháng đạt mức cao nhất trong vòng 5 năm qua
Giữ vững đà tăng trưởng, đảm bảo an sinh xã hội
Cần xác định nhiệm vụ trọng tâm để thúc đẩy tăng trưởng
Vinh danh doanh nghiệp bền vững cùng hành trình CSI bồi đắp nội lực doanh nghiệp Việt
Bộ trưởng Bộ Công Thương giải trình, làm rõ ý kiến đại biểu Quốc hội về chính sách phát triển năng lượng
Khơi thông nguồn lực tư nhân trong lĩnh vực năng lượng
Giải ngân đầu tư công năm 2025 tiếp tục cải thiện, vượt tiến độ cùng kỳ năm trước
Thu ngân sách nhà nước vượt gần 22% dự toán năm
TP. Hồ Chí Minh: Thu ngân sách vượt dự toán trước một tháng
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài tăng trưởng đột phá
Vốn FDI thực hiện 11 tháng đạt mức cao nhất trong vòng 5 năm qua
Giữ vững đà tăng trưởng, đảm bảo an sinh xã hội
Nhiều tín hiệu khởi sắc của doanh nghiệp trong bối cảnh kinh tế phục hồi












