Tháo điểm nghẽn năng suất để doanh nghiệp Việt bứt phá

Thanh Hằng

Trong nền kinh tế quốc dân, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm hơn 97% tổng số doanh nghiệp và tạo ra phần lớn việc làm, do đó được kỳ vọng trở thành động lực thúc đẩy tăng trưởng theo chiều sâu. Tuy vậy, khu vực này vẫn đối mặt nhiều điểm nghẽn từ thể chế, tiếp cận vốn, công nghệ đến nguồn nhân lực và liên kết chuỗi giá trị. Nếu không giải quyết căn cơ, năng suất thấp sẽ tiếp tục kìm hãm khả năng nâng tầm giá trị của doanh nghiệp Việt.

Doanh nghiệp tăng, năng suất không tăng

Trong hơn hai thập niên qua, mô hình tăng trưởng của Việt Nam vẫn dựa nhiều vào vốn và lao động. Mặc dù đóng góp của năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) đã cải thiện, nhưng vẫn chỉ ở mức 38-40%, thấp hơn nhiều so với mức 50-55% ở các nền kinh tế công nghiệp hóa. Điều này cho thấy tăng trưởng chưa dựa trên đổi mới và hiệu quả sử dụng nguồn lực, mà chủ yếu nhờ mở rộng quy mô theo số lượng.

Chỉ số năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) của Việt Nam được đánh giá thấp hơn so với các nền kinh tế công nghiệp hóa.
Chỉ số năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) của Việt Nam được đánh giá thấp hơn so với các nền kinh tế công nghiệp hóa.

Các dữ liệu giai đoạn 2016-2024 chỉ ra một nghịch lý đáng chú ý: số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng liên tục nhưng năng suất lao động và giá trị gia tăng lại không tăng tương ứng. Chi tiêu cho hoạt động nghiên cứu - phát triển (R&D) chỉ đạt khoảng 0,4-0,45% GDP, thấp hơn đáng kể so với các nước trong khu vực. Thêm vào đó, chỉ có khoảng 39% doanh nghiệp tiếp cận được tín dụng chính thức, tạo rào cản lớn đối với đầu tư dài hạn và đổi mới công nghệ.

 
Đại biểu Nguyễn Như So - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh
Đại biểu Nguyễn Như So - Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Ninh

Việt Nam đang đối diện với "điểm nghẽn nghiêm trọng" khi có 63% việc làm phi chính thức, 38 triệu người chưa qua đào tạo nghề, chỉ 11,67% có trình độ cao. Vì vậy năng suất lao động chỉ bằng 1/10 Singapore và 1/2 Trung Quốc, do thiếu hụt kỹ năng và độ trễ về thể chế về giáo dục.

Theo các chuyên gia, cốt lõi của vấn đề nằm ở sự thiếu đồng bộ giữa thể chế hỗ trợ và năng lực hấp thụ chính sách của doanh nghiệp. Dù có luật và nhiều chương trình hỗ trợ, nhưng chỉ 12% doanh nghiệp thực sự nhận được hỗ trợ theo khảo sát năm 2024 của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM). Thủ tục hành chính phức tạp, thiếu minh bạch khiến chi phí tuân thủ tăng, làm suy giảm động lực đổi mới và mở rộng sản xuất.

Vấn đề tài chính cũng là một nút thắt lớn, với khoảng 61% doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn đứng ngoài hệ thống tín dụng chính thức do thiếu tài sản bảo đảm hoặc hồ sơ tài chính chưa minh bạch. Các công cụ tài chính mới như quỹ đầu tư mạo hiểm, kênh huy động qua trái phiếu hoặc chứng khoán hóa tài sản vẫn còn sơ khai. Khi thiếu vốn dài hạn, doanh nghiệp không thể đầu tư cho nâng cấp công nghệ, làm năng suất khó bứt phá.

Góc độ công nghệ và đổi mới sáng tạo càng thể hiện rõ những hạn chế mang tính hệ thống. Việt Nam xếp thứ 46 trong Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2025, song chỉ khoảng 8% doanh nghiệp có hoạt động R&D thường xuyên. Tỷ lệ ứng dụng các hệ thống quản trị số như ERP, CRM chỉ dưới 10%. Nhiều doanh nghiệp vẫn coi đầu tư công nghệ là chi phí, thay vì là hạt nhân tạo ra năng suất và năng lực cạnh tranh dài hạn.

Chất lượng nguồn nhân lực và năng lực quản trị doanh nghiệp cũng là rào cản đáng kể. Khoảng 68% lao động trong doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa qua đào tạo nghề chính quy, trong khi nhiều doanh nghiệp vẫn vận hành theo mô hình gia đình, thiếu cơ chế đánh giá hiệu quả và quản trị dữ liệu. Điều này khiến doanh nghiệp khó xây dựng văn hóa đổi mới và khó thích ứng với những yêu cầu ngày càng cao của chuỗi cung ứng toàn cầu.

Một điểm yếu quan trọng khác là mức độ liên kết chuỗi giá trị còn mờ nhạt. Chỉ khoảng 14% doanh nghiệp nhỏ và vừa tham gia chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI, trong khi tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công nghệ cao như điện tử, cơ khí, ô tô chỉ đạt 35-40%. Ở những nền kinh tế công nghiệp hóa mới, liên kết chuỗi giá trị đóng vai trò chuyển giao công nghệ. Thiếu liên kết khiến doanh nghiệp Việt bị mắc kẹt ở khâu gia công đơn giản với lợi nhuận thấp…

Chuyển từ hỗ trợ dàn trải sang kiến tạo năng lực

Chia sẻ tại Hội nghị “Quản trị kinh doanh với mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai chữ số bền vững của Việt Nam” diễn ra mới đây tại Hà Nội, TS. Lê Hữu Thi - Viện trưởng Viện Công nghệ và Sức khỏe - HETEC (Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam) cho rằng, để thoát khỏi vòng luẩn quẩn năng suất thấp, Việt Nam cần chuyển trọng tâm chính sách từ hỗ trợ dàn trải sang kiến tạo năng lực.

“Chính sách phải giúp doanh nghiệp phát triển năng lực nội sinh, thay vì chỉ cung cấp các ưu đãi tài chính ngắn hạn. Trước hết là cải cách thể chế, giảm thủ tục hành chính và xây dựng hệ sinh thái dữ liệu doanh nghiệp kết nối liên thông giữa các bộ ngành, tạo môi trường minh bạch và chi phí giao dịch thấp”, TS. Lê Hữu Thi nhận định.

Theo TS. Lê Hữu Thi, bên cạnh thể chế, cần thúc đẩy mạnh đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Chính phủ có thể mở rộng cơ chế quỹ đồng tài trợ công - tư, hình thành mạng lưới trung tâm đổi mới sáng tạo vùng gắn với viện nghiên cứu và trường đại học. Việc đào tạo kỹ năng số và tư duy dữ liệu cần được triển khai rộng rãi, nhằm nâng cao khả năng triển khai công nghệ trong doanh nghiệp, đặc biệt trong các ngành sản xuất chế biến và dịch vụ.

Tiếp cận tài chính cũng phải được cải cách theo hướng bền vững. Việt Nam có thể học tập mô hình ngân hàng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa như ở Hàn Quốc hay Malaysia. Đồng thời, cần nâng cao tính minh bạch tài chính trong doanh nghiệp thông qua chuẩn hóa báo cáo và xếp hạng tín dụng. Khi thông tin rõ ràng, ngân hàng và các định chế tài chính sẽ giảm chi phí rủi ro và mở rộng tín dụng hiệu quả.

Phát triển nhân lực và nâng cao năng lực quản trị là yếu tố then chốt. Mô hình hợp tác ba bên giữa doanh nghiệp - trường nghề - viện nghiên cứu cần được thúc đẩy mạnh hơn. Doanh nghiệp cần chuyển từ điều hành theo kinh nghiệm sang quản trị dựa trên dữ liệu, quy trình và KPIs. Khi năng lực quản trị cải thiện, doanh nghiệp mới có thể nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực và năng suất tổng thể.

Cuối cùng, việc tăng cường liên kết chuỗi giá trị sẽ giúp lan tỏa công nghệ và tạo động lực nâng cấp sản xuất. Nhà nước cần triển khai chương trình phát triển nhà cung ứng nội địa, hỗ trợ doanh nghiệp đạt các tiêu chuẩn quốc tế và mở rộng thương mại điện tử xuyên biên giới. Khi doanh nghiệp tham gia sâu hơn vào mạng lưới sản xuất toàn cầu, năng lực cạnh tranh và năng suất mới có thể bứt phá bền vững.

“Việt Nam cần xây dựng một khung “thể chế - năng lực” thống nhất gồm năm trụ cột: thể chế, tài chính, công nghệ - đổi mới, nhân lực - quản trị và liên kết chuỗi giá trị. Nếu các trụ cột này được triển khai đồng bộ, năng suất lao động có thể tăng 8-9% mỗi năm và đóng góp của TFP có thể đạt 45-50%, tạo nền tảng hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng hai con số giai đoạn 2026-2030”, TS. Lê Hữu Thi nhấn mạnh.