Phát triển du lịch biển - hướng đi bền vững cho kinh tế biển xanh ở Việt Nam
ThS. Vũ Việt Phương
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Email: vuvietphuongajc@gmail.com
Tóm tắt
Bài viết phân tích tiềm năng, thực trạng và định hướng phát triển các mô hình du lịch biển tại Việt Nam nhằm hướng tới một nền kinh tế biển xanh, bền vững. Với đường bờ biển dài hơn 3.260 km và hệ sinh thái phong phú, du lịch biển Việt Nam đã đóng góp lớn vào GDP, tạo việc làm và quảng bá hình ảnh Đất nước. Tuy nhiên, phát triển du lịch biển Việt Nam vẫn tồn tại nhiều hạn chếnhư: phân bố phát triển không đồng đều, ô nhiễm môi trường, thiếu sản phẩm đặc thù và nhân lực chất lượng. Do đó, cấn có những giải pháp để phát triển các mô hình du lịch biển Việt Nam trong thời gian tới, nhằm hướng đến một nền kinh tế biển xanh, bền vững.
Từ khoá: Du lịch biển, kinh tế biển xanh, phát triển bền vững
Summary
The article analyzes the potential, current situation, and future orientations for the development of marine tourism in Vietnam, with the goal of building a sustainable blue economy. With a coastline of over 3,260 kilometers and a rich ecosystem, Vietnam holds significant advantagesfor marine tourism development. This sector has made notable contributions to the national GDP, generated employment opportunities, and promoted the country's image on the global stage. However, various challenges persist, including uneven regional development, environmental pollution, a lack of distinctive tourism products, and a shortage of skilled human resources. Therefore, appropriate and strategic solutions are essential to enhance marine tourism models in the future, contributing to the advancement of an environmentally friendly and sustainable blue economy in Viet Nam.
Keywords: Marine tourism, blue economy, sustainable development
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là quốc gia có nhiều tiềm năng trong phát triển du lịch, đặc biệt là du lịch gắn với biển và các vùng ven biển. Với đường bờ biển dài hơn 3.260 km, trải rộng qua 28 tỉnh, thành phố và hàng ngàn hòn đảo lớn nhỏ, Việt Nam sở hữu hệ sinh thái biển phong phú cùng nền văn hóa độc đáo của các cộng đồng dân cư ven biển. Tại Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22/10/2018 về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã khẳng định tầm quan trọng của phát triển kinh tế biển gắn với bảo vệ môi trường, trong đó, đề cập đến sự cần thiết phát triển, đa dạng các mô hình du lịch gắn với biển. Nghiên cứu này phân tích thực trạng phát triển du lịch biển, qua đó, đề xuất một số kiến nghị nhằm thúc đẩy du lịch biển hướng tới phát triển kinh tế biển xanh trong thời gian tới.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN Ở VIỆT NAM
Du lịch biển Việt Nam hiện đang là một trong những lĩnh vực có sức hút lớn và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc gia. Với đường bờ biển dài cùng nhiều bãi biển đẹp như: Hạ Long, Đà Nẵng, Nha Trang, Phú Quốc, Phan Thiết... không gian phát triển du lịch biển được phân bố rộng khắp trên cả nước. Tuy nhiên, sự phát triển chủ yếu tập trung ở các địa phương có hạ tầng tốt và lượng khách ổn định như: miền Bắc (Hạ Long, Cát Bà), miền Trung (Đà Nẵng, Hội An, Nha Trang) và miền Nam (Phú Quốc, Vũng Tàu)....
Hàng năm, du lịch biển thu hút hàng chục triệu lượt khách, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số khách du lịch của cả nước, trong đó, khách quốc tế có xu hướng tăng mạnh. Đặc biệt, doanh thu từ du lịch biển đóng góp đáng kể vào GDP quốc gia, với các khu vực ven biển dẫn đầu về nguồn thu. Bên cạnh đó, giá trị du lịch biển không chỉ nằm ở doanh thu, mà còn ở việc quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn văn hóa, thiên nhiên và tạo việc làm cho hàng triệu lao động.
VỀ PHÂN BỐ KHÔNG GIAN PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN ĐẢO
Các vùng ven biển Việt Nam đã khai thác tốt lợi thế tự nhiên và văn hóa để phát triển du lịch, song vẫn cần cải thiện về sự đồng đều trong phân bổ hạ tầng và dịch vụ, đảm bảo khai thác bền vững tài nguyên. Theo Báo cáo Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2045, phân bố không gian phát triển du lịch biển đảo các vùng trên cả nước như sau:
- Vùng ven biển Bắc Bộ: Tập trung vào các địa bàn trọng điểm như Hạ Long, Cát Bà và Đồ Sơn. Đây là khu vực nổi bật với các loại hình du lịch như: tham quan cảnh quan (đặc biệt là vịnh Hạ Long), tắm biển, nghỉ dưỡng, du lịch văn hóa, sinh thái, thể thao trên biển và MICE (du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo). Khu vực này thu hút khoảng 19,4% lượng khách quốc tế, 11,4% khách nội địa, đạt 9,8% tổng thu nhập du lịch và sở hữu 11,8% tổng số buồng lưu trú trên toàn vùng ven biển cả nước.
- Vùng ven biển Bắc Trung Bộ: Có lợi thế là toàn bộ các tỉnh đều giáp biển, với các địa điểm nổi tiếng như: Sầm Sơn, Cửa Lò, Thiên Cầm, Đồng Hới và các đầm phá ở Thừa Thiên Huế. Loại hình du lịch nổi bật ở đây gồm: nghỉ dưỡng, tham quan cảnh quan (Lăng Cô, Hải Vân), sinh thái, khám phá di sản văn hóa nhà Nguyễn và du lịch MICE. Khu vực Bắc Trung Bộ ngày càng thu hút khách du lịch với cơ sở hạ tầng và dịch vụ được nâng cấp.
- Vùng ven biển Nam Trung Bộ: Tập trung tại các tỉnh như: Đà Nẵng, Quảng Nam, Khánh Hòa, Bình Thuận, Bình Định, Phú Yên, Ninh Thuận... Loại hình du lịch nổi bật gồm: nghỉ dưỡng biển, tham quan di sản văn hóa Chăm, sinh thái biển đảo, thể thao biển và MICE. Khu vực này này thu hút 10,7% khách quốc tế, 4% khách nội địa, chiếm 8,4% tổng thu nhập du lịch và sở hữu 13,3% số buồng lưu trú toàn vùng ven biển.
- Vùng ven biển Đông Nam Bộ: Tập trung phát triển tại tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và Cần Giờ (TP. Hồ Chí Minh). Loại hình du lịch ưu thế gồm: nghỉ dưỡng biển, tham quan cảnh quan, di tích lịch sử và MICE. Khu vực này dẫn đầu về các chỉ tiêu phát triển du lịch, chiếm 26,4% khách quốc tế, 33% khách nội địa, 46,3% tổng thu nhập du lịch và 15,8% buồng lưu trú toàn vùng ven biển.
- Vùng ven biển Tây Nam Bộ: Khu vực này có ít bãi biển, một số địa điểm nổi tiếng như: Hà Tiên, Kiên Lương và các đảo thuộc Kiên Giang. Loại hình du lịch gồm: nghỉ dưỡng, tham quan cảnh quan, di tích lịch sử, sinh thái và thể thao biển. Khu vực này thu hút 7,6% khách quốc tế, 12,4% khách nội địa, chiếm 5,2% tổng thu nhập du lịch và sở hữu 9,2% số buồng lưu trú toàn vùng ven biển.
VỀ LƯỢT KHÁCH, DOANH THU
Du lịch biển Việt Nam đã và đang trở thành điểm sáng với sự tăng trưởng ổn định về lượt khách và doanh thu. Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, trong giai đoạn 2011-2024, du lịch biển tại 28 tỉnh, thành phố ven biển đã có sự tăng trưởng ấn tượng, thể hiện qua các chỉ số cụ thể:
Lượng khách quốc tế: Trong giai đoạn 2011-2024, lượt khách quốc tế tăng trưởng trung bình 14,5%/ năm, thấp hơn mức trung bình cả nước (14,8%/ năm). Các địa phương dẫn đầu về thu hút khách quốc tế năm 2019 gồm: TP. Hồ Chí Minh (8,6 triệu lượt), Quảng Ninh (5,7 triệu lượt), Quảng Nam (4,6 triệu lượt), Khánh Hòa (3,6 triệu lượt) và Đà Nẵng (3,5 triệu lượt). Năm 2024, Việt Nam đón 17,5 triệu lượt khách, tăng 39,5% so với năm 2023.
Lượng khách nội địa: Tăng từ 53,1 triệu lượt năm 2011 lên 131,9 triệu lượt năm 2019. Năm 2024, sau giai đoạn COVID-19, lượng khách du lịch nội địa phục hồi đạt 110 triệu lượt, tăng 1,6% so với năm 2023. Trong đó, TP. Hồ Chí Minh (32,8 triệu lượt), Bà Rịa - Vũng Tàu (14,7 triệu lượt), Thanh Hóa (9,4 triệu lượt), Hải Phòng (8,1 triệu lượt) và Quảng Ninh (8 triệu lượt) là các điểm đến hàng đầu của cả nước.
Bảng 1: một số chỉ tiêu phát triển du lịch biển vùng bờ giai đoạn 2011 -2024
| Chỉ tiêu | Đơn vị | 2011 | 2015 | 2019 | 2024 |
| Khách quốc tế | Nghìn người | 9.891 | 14.285 | 29.180 | 17.583 |
| Khách nội địa | Nghìn người | 53.080 | 88.332 | 131.925 | 110.000 |
| GDP du lịch | Tỷ VND | 57.761 | 155.442 | 311.720 | 840.000 |
| GDP thuần | Tỷ VND | 29.966 | 80.641 | 161.716 | - |
| Buồng khách sạn | Buồng | 137.629 | 211.478 | 343.210 | - |
Nguồn: Tổng hợp từ Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2045 và Tổng cục Thống kê.
Doanh thu từ du lịch biển: Tổng thu từ du lịch biển của 28 tỉnh, thành phố đạt khoảng 445 nghìn tỷ đồng (năm 2019), đến năm 2024 là khoảng 840 nghìn tỷ đồng (tăng 23,8% so với năm 2023) đóng góp quan trọng vào kinh tế vùng ven biển và cả nước.
Cơ sở lưu trú: Tổng số buồng khách sạn tại khu vực ven biển năm 2019 đạt 343.210 buồng, chiếm 54% tổng số buồng cả nước. Năm 2024, cả nước có 274 cơ sở lưu trú hạng 5 sao với 88.549 buồng phòng, 380 cơ sở lưu trú hạng 4 sao với 52.177 buồng phòng. Các địa phương có hệ thống lưu trú lớn nhất gồm: Khánh Hòa (49,6 nghìn buồng), TP. Hồ Chí Minh (44,2 nghìn buồng), Đà Nang (40 nghìn buồng), Thanh Hóa (40 nghìn buồng), Quảng Ninh (31 nghìn buồng) và Bà Rịa - Vũng Tàu (23,9 nghìn buồng). Bảng 1 thể hiện rõ một số chỉ tiêu của du lịch biển Việt Nam giai đoạn 2011-2024.
VỀ GIÁ TRỊ DU LỊCH CỦA CÁC ĐỊA PHƯƠNG VEN BIỂN
Tổng giá trị dịch vụ lưu trú và ăn uống tại các địa phương ven biển Việt Nam đã tăng trưởng đáng kể trong những năm gần đây, nhưng mức tăng này không đồng đều giữa các tỉnh, thành phố. Sự chênh lệch này chủ yếu xuất phát từ tính năng động và khả năng khai thác tiềm năng du lịch của từng địa phương, hơn là chỉ dựa vào lợi thế tài nguyên sẵn có. Điển hình như: TP. Hồ Chí Minh, trong quý I/2024, doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống ước đạt 29,7 nghìn tỷ đồng, tăng 12,2% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu du lịch lữ hành đạt 8,2 nghìn tỷ đồng, tăng 58,7%; Tại Đà Nẵng, quý I/2024, doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống đạt 6,4 nghìn tỷ đồng, tăng 19,8% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu du lịch lữ hành đạt 1,2 nghìn tỷ đồng, tăng 69%; Tại Hải Phòng, tháng 7/2023, doanh thu dịch vụ lưu trú ước đạt 261,7 tỷ đồng, tăng 13,8% so với cùng kỳ năm trước; doanh thu dịch vụ ăn uống ước đạt 1,9 nghìn tỷ đồng, tăng 10%.
Mặc dù nhiều địa phương ven biển sở hữu tài nguyên du lịch phong phú, nhưng hiệu quả khai thác và giá trị gia tăng từ dịch vụ lưu trú và ăn uống của các địa phương cũng có sự khác biệt, do phụ thuộc vào một số yếu tố như:
- Chính sách phát triển du lịch: Những địa phương có chiến lược phát triển du lịch rõ ràng, đầu tư hạ tầng và quảng bá hiệu quả thường thu hút nhiều du khách hơn, dẫn đến doanh thu cao hơn.
- Chất lượng dịch vụ: Các địa phương chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ lưu trú và ăn uống, đào tạo nhân lực chuyên nghiệp sẽ tạo ấn tượng tốt với du khách, thúc đẩy họ quay lại và giới thiệu cho người khác.
- Hoạt động xúc tiến và quảng bá: Sự năng động trong việc tổ chức các sự kiện, lễ hội và chiến dịch quảng bá của các địa phương giúp tăng cường hình ảnh điểm đến, thu hút du khách trong và ngoài nước.
Nhìn chung, tổng giá trị dịch vụ lưu trú và ăn uống tại các địa phương ven biển Việt Nam đang trên đà tăng trưởng, nhưng mức độ tăng trưởng phụ thuộc nhiều vào tính năng động và chiến lược phát triển của từng địa phương. Việc tập trung vào nâng cao chất lượng dịch vụ, đào tạo nguồn nhân lực và triển khai các chính sách phát triển du lịch hiệu quả sẽ quyết định giá trị gia tăng, thay vì chỉ dựa vào lợi thế tài nguyên tự nhiên.
HẠN CHẾ TRONG PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu, song phát triển du lịch biển ở Việt Nam vẫn tồn tại không ít hạn chế cần khắc phục.
Một là, sự phát triển chưa đồng đều giữa các vùng biển, chủ yếu tập trung ở một số địa phương có điều kiện thuận lợi, trong khi nhiều khu vực khác như Tây Nam Bộ, Bắc Trung Bộ còn chưa phát huy hết tiềm năng do thiếu hạ tầng và dịch vụ du lịch.
Hai là, việc khai thác tài nguyên du lịch biển còn chưa hiệu quả và bền vững. Nhiều vùng biển đẹp vẫn chưa được quy hoạch hoặc đầu tư bài bản, dẫn đến khai thác manh mún, thiếu đồng bộ.
Ba là, vấn đề môi trường đang là thách thức lớn, khi rác thải, ô nhiễm nước biển và suy giảm tài nguyên sinh thái biển diễn ra ở một số điểm du lịch nổi tiếng, gây ảnh hưởng tới hình ảnh và chất lượng du lịch.
Bôn là, nguồn nhân lực cho ngành Du lịch biển vẫn còn yếu, thiếu nhân viên có kỹ năng chuyên môn, ngoại ngữ và nghiệp vụ phục vụ du khách quốc tế, nhất là tại các điểm du lịch mới nổi.
Năm là, du lịch biển Việt Nam vẫn thiếu bản sắc và chưa tạo được thương hiệu mạnh trên thị trường quốc tế. So với các nước trong khu vực như Thái Lan hay Indonesia, sản phẩm du lịch biển của Việt Nam còn đơn điệu, chưa có sự khác biệt rõ rệt để cạnh tranh.
Sáu là, chính sách phát triển du lịch chưa thực sự đồng bộ giữa các địa phương. Việc thiếu liên kết vùng, phối hợp trong quy hoạch, đầu tư và quảng bá khiến nhiều tiềm năng du lịch biển vẫn bị bỏ ngỏ, chưa phát huy hết giá trị.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN DU LỊCH BIỂN HƯỚNG TỚI KINH TẾ BIỂN XANH Ở VIỆT NAM
Để phát triển các mô hình du lịch biển Việt Nam nhằm hướng tới một nền kinh tế biển xanh, bền vững, trong thời gian tới, cần thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất, phát triển đồng đều không gian du lịch biển trên cả nước. Cần giảm sự mất cân đối giữa các vùng du lịch biển hiện tại. Các địa phương còn yếu như Tây Nam Bộ cần có chính sách ưu tiên đầu tư, hỗ trợ phát triển hạ tầng, dịch vụ, kết nối giao thông để tận dụng tốt tiềm năng biển đảo. Đẩy mạnh khai thác các vùng biển có tiềm năng nhưng chưa phát triển mạnh như: Phú Yên, Ninh Thuận, Bình Định, Cà Mau... bằng các dự án trọng điểm.
Thứ hai, tăng cường đầu tư hạ tầng và dịch vụ du lịch biển. Đầu tư xây dựng hạ tầng giao thông kết nối liên vùng, nâng cấp các sân bay, cảng biển để tạo điều kiện thuận lợi cho du khách tiếp cận. Phát triển hệ thống cơ sở lưu trú chất lượng cao, đa dạng hóa sản phẩm nghỉ dưỡng theo chuẩn quốc tế để cạnh tranh thu hút khách quốc tế.
Thứ ba, đa dạng hóa các mô hình sản phẩm du lịch biển. Khuyến khích các mô hình như: du lịch sinh thái biển, du lịch cộng đồng ven biển, du lịch thể thao biển, du lịch khám phá - nghiên cứu khoa học, du lịch văn hóa gắn với các làng chài. Tăng cường sáng tạo các sản phẩm đặc thù địa phương như tour du lịch ẩm thực biển, trải nghiệm văn hóa dân tộc biển, du lịch chữa lành gắn với biển.
Thứ tư, phát triển du lịch biển gắn với bảo vệ môi trường và bảo tồn tài nguyên biển. Đảm bảo các dự án du lịch phải đi kèm đánh giá tác động môi trường rõ ràng, có cam kết bảo tồn sinh thái biển. Khuyến khích ứng dụng công nghệ xanh, năng lượng tái tạo trong cơ sở lưu trú, dịch vụ ven biển; hạn chế rác thải nhựa trong hoạt động du lịch biển.
Thứ năm, tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách phát triển du lịch biển. Triển khai hiệu quả Nghị quyết số 36-NQ/TW và Nghị quyết số 26/NQ-CP của Chính phủ, trong đó chú trọng chính sách chuyển đổi nghề cho ngư dân sang làm du lịch. Xây dựng cơ chế liên kết vùng trong phát triển du lịch biển để kết nối các sản phẩm, tuyến du lịch liên tỉnh, liên vùng hiệu quả.
Thứ sáu, tăng cường xúc tiến quảng bá du lịch biển Việt Nam ra thế giới. Xây dựng chiến lược marketing chuyên nghiệp cho thương hiệu du lịch biển Việt Nam, khai thác các kênh truyền thông quốc tế. Tổ chức các lễ hội biển, chương trình quảng bá văn hóa biển đặc sắc ở các vùng trọng điểm nhằm tạo điểm nhấn và thu hút du khách.
Thứ bảy, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho du lịch biển. Đẩy mạnh đào tạo nghề chuyên ngành du lịch biển, đặc biệt là kỹ năng giao tiếp quốc tế, quản lý khách sạn, hướng dẫn viên chuyên sâu về biển. Tăng cường hợp tác với các trường đại học, tổ chức quốc tế để nâng cao năng lực và chuẩn hóa chất lượng nhân sự ngành.
Tài liệu tham khảo:
1. IUCN, VNAT, ESCAP (1999). Tuyển tập báo cáo Hội thảo xây dựng chiến lược quốc gia về phát triển du lịch sinh thái tại Việt Nam.
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường (2023). Báo cáo chi tiết Quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2045.
3. Thủ thướng Chính phủ (2013). Quyết định số2163/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch vùng Đáng bằng sông Háng và Duyên hải Đông Bắc đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030.
4. Chiến Thắng (2020). Chuyển đổi sinh kế phát triển du lịch bền vững tại các tỉnh ven biển Việt Nam ứng phó với biến đổi khí hậu,
5. https://itdr.org.vn/nghien_cuu/chuyen-doi-sinh-ke-phat-trien-du-lich- tai-cac- tinh-ven-bien-viet-nam-ung-pho-voi-bien-doi-khi-hau/
(Theo Tạp chí Kinh tế - Tài chính, kỳ 2 tháng 6/2025)
Tin tức khác
TP. Hồ Chí Minh: Xử phạt hành chính 36 doanh nghiệp chậm đóng bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm - Ngân hàng
MB triển khai thẻ MB Visa Hi BIZ cho doanh nghiệp trong nước
Bảo hiểm - Ngân hàng
Chính sách tài khóa tạo động lực tăng trưởng cho nền kinh tế
Nghiên cứu - Trao đổi
Vietcombank giữ vững vị thế Ngân hàng có môi trường làm việc tốt nhất Việt Nam
Bảo hiểm - Ngân hàng
TP. Hồ Chí Minh: Gần 20.000 doanh nghiệp chậm đóng bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm - Ngân hàng
VPBank thanh lý tài sản đảm bảo, giá thấp hơn thị trường 10-20%
Bảo hiểm - Ngân hàng
Hạ tầng VietQR được mở rộng cho thanh toán nội địa và xuyên biên giới
Bảo hiểm - Ngân hàng
MultiMedia
INFOGRAPHIC: 6 nhóm hàng xuất khẩu "chục tỷ đô" của doanh nghiệp FDI
VIDEO: Bộ Tài chính đề xuất nâng mức doanh thu miễn thuế lên 500 triệu đồng/năm
INFOGRAPHIC: Chương trình 1719 tại tỉnh Lào Cai: 5 năm bứt phá, chuyển biến toàn diện
INFOGRAPHIC: Chương trình Mục tiêu quốc gia 1719 giai đoạn II (2026–2030): Trao quyền cho địa phương, tạo bứt phá từ vùng lõi nghèo
VIDEO: Bộ Tài chính đề xuất thu thuế trên thu nhập, chính thức xóa bỏ thuế khoán
Thúc đẩy hợp tác kinh tế - đầu tư Việt – Lào lên tầm cao mới
Tài chính
TP. Hồ Chí Minh: Đóng góp thêm 20 tỷ đồng hỗ trợ đồng bào bị bão, lũ
Thời sự
TP. Hồ Chí Minh: Chuyển đổi kép để xây dựng đô thị thông minh
Thời sự
Đề xuất đầu tư cao tốc Vinh - Thanh Thủy hơn 25.300 tỷ đồng
Thời sự
Quản lý tài chính - ngân sách hiệu quả, hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế
Thời sự
Bỏ độc quyền cho vay lại, rút gọn thủ tục ODA trong dự thảo Luật Quản lý nợ công sửa đổi
Hoạt động của Lãnh đạo Bộ Tài chính
Quyết liệt các giải pháp để đạt tăng trưởng trên 8%
Tài chính
Cần khoảng một tháng để khắc phục sự cố điện ở Phú Quốc
Thời sự
Thúc đẩy hợp tác kinh tế - đầu tư Việt – Lào lên tầm cao mới
Tài chính
Đề xuất cơ chế đột phá giúp TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng bứt phá sau mở rộng địa giới
Tài chính
Kinh tế - xã hội TP. Hà Nội tháng 11 tiếp tục chuyển biến tích cực
Tài chính
Bộ Tài chính tổ chức khóa đào tạo Bảo mật Đám mây cho tổ chức
Chuyển đổi số
Bộ Tài chính lấy ý kiến cho Dự thảo thông tư về giám sát thị trường chứng khoán
Tài chính
Sở Tài chính Cà Mau đề xuất giao 60 cơ sở nhà, đất dôi dư để bán đấu giá, đầu tư
Tài chính
Hoàn thiện Nghị định xử phạt lĩnh vực giá: Làm rõ thẩm quyền, tránh chồng chéo
Pháp luật










