Nâng hiệu quả quản lý nợ công gắn với đầu tư công chất lượng cao

Thanh Hằng

Giai đoạn phát triển mới của nền kinh tế Việt Nam đòi hỏi mô hình tăng trưởng dựa trên chất lượng và hiệu quả nguồn lực hơn là quy mô đầu tư. Trong đó, nợ công và đầu tư công giữ vai trò quyết định trong việc duy trì ổn định vĩ mô và tạo dư địa tài khóa cho tăng trưởng. Việc nâng cao hiệu quả sử dụng hai công cụ này chính là chìa khóa mở ra không gian phát triển dài hạn giai đoạn 2025–2030.

Nợ công ở mức an toàn 

Từ năm 2005 đến 2024, kinh tế Việt Nam duy trì tốc độ tăng trưởng trung bình 6,2%/năm. Tuy nhiên, mục tiêu tăng trưởng 8-10% mà Chính phủ hướng tới giai đoạn 2025-2030 được đánh giá là đầy thách thức. Nguyên nhân xuất phát từ năng suất lao động tăng chậm, hiệu quả đầu tư còn hạn chế và dư địa chính sách tài khóa -  tiền tệ cũng khó khăn hơn sau nhiều năm ứng phó biến động toàn cầu.

Ảnh minh họa.
Ảnh minh họa.

Theo TS. Nguyễn Đức Độ - Viện Kinh tế Tài chính (Học viện Tài chính), giai đoạn 2020-2024, khu vực nhà nước vẫn giữ vai trò chủ lực trong đầu tư. Trung bình, tốc độ tăng đầu tư công đạt 10%/năm, cao hơn khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài. Dù vậy, mức độ lan tỏa và hiệu quả của đầu tư công chưa tương xứng với quy mô vốn bỏ ra, khi nhiều dự án vẫn chậm tiến độ hoặc chưa tạo được tác động rõ rệt đến tăng trưởng.

Tỷ trọng đầu tư công trong tổng đầu tư khu vực nhà nước duy trì khoảng 60-66%. Con số này khẳng định đầu tư công vẫn là nguồn vốn chủ đạo của khối nhà nước, song áp lực về phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn lực còn lớn. Thực tế cho thấy tình trạng dàn trải vốn, khó khăn giải phóng mặt bằng và thủ tục phức tạp vẫn làm giảm hiệu suất đầu tư trong nhiều năm qua.

Về nợ công, năm 2024, tỷ lệ nợ công trên GDP của Việt Nam ước đạt 34%, thấp hơn nhiều so với giới hạn 60% do Quốc hội cho phép. Nợ Chính phủ chiếm khoảng 31,8% GDP, nghĩa vụ trả nợ nước ngoài chỉ 7,8% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ. Ngoài ra, hiện nay, phần lớn nợ công của Việt Nam hiện nay là nợ trong nước, chiếm tới 76%. Việc chuyển dịch cơ cấu nợ theo hướng nội tệ hóa giúp giảm rủi ro tỷ giá và phụ thuộc vào vốn vay nước ngoài. 

Lãi suất trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2021-2025 duy trì quanh mức 2,5-3,2%/năm cho kỳ hạn 10-15 năm. Mức lãi suất thấp cho thấy niềm tin của thị trường đối với năng lực trả nợ của Việt Nam. Dẫu vậy, điều này vẫn đặt ra yêu cầu về tiếp tục cải thiện hiệu quả đầu tư công.

Hoàn thiện cơ chế phân bổ và giám sát vốn đầu tư

Theo TS. Nguyễn Đức Độ, việc nâng cao hiệu quả nợ công không dừng ở quản lý quy mô vay, mà quan trọng hơn là tăng chất lượng chi tiêu và đầu tư công. Mỗi đồng vốn vay cần được gắn với các dự án có tác động lan tỏa mạnh, thúc đẩy năng suất tổng hợp, hiện đại hóa hạ tầng và hỗ trợ doanh nghiệp phát triển. Sự phối hợp giữa tài khóa và tiền tệ cũng cần linh hoạt để tối ưu hóa hiệu quả sử dụng vốn.

Để đạt mục tiêu đó, việc hoàn thiện cơ chế phân bổ và giám sát đầu tư công là yêu cầu cấp thiết. TS. Nguyễn Đức Độ cho rằng cần thiết lập bộ tiêu chí đánh giá độc lập về hiệu quả kinh tế - xã hội của các dự án, ưu tiên vốn cho những lĩnh vực có tính lan tỏa cao như hạ tầng số, năng lượng tái tạo, logistics. Đồng thời, cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về giá đất, tăng tính minh bạch dữ liệu và áp dụng cơ chế linh hoạt nhằm rút ngắn thời gian bàn giao mặt bằng cho dự án. Song song, cần tiếp tục tăng cường giám sát, quy trách nhiệm rõ ràng cho các cơ quan triển khai dự án. 

Ngoài ra, chuyên gia này cũng cho rằng cần xác xây dựng cơ chế bảo vệ người dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, nhằm khơi dậy tinh thần chủ động trong quản lý đầu tư công.

Trong dài hạn, Việt Nam cần phát triển thị trường vốn trong nước vững mạnh hơn. Khi thị trường trái phiếu phát triển, Nhà nước có thể huy động vốn dài hạn với chi phí hợp lý và phân tán rủi ro. Bên cạnh đó, việc mở rộng hình thức hợp tác công - tư (PPP) sẽ tạo cơ hội để khu vực tư nhân cùng tham gia các dự án hạ tầng trọng điểm.

Tổng thể, việc nâng cao hiệu quả nợ công và đầu tư công không đơn thuần là bài toán tài chính, mà còn là yếu tố quyết định cho phát triển bền vững. “Nợ công tự thân không xấu. Quan trọng là chúng ta vay để đầu tư vào những gì mang lại hiệu quả thực. Khi nguồn vốn được sử dụng đúng mục tiêu và tạo ra giá trị kinh tế - xã hội cao, nợ công sẽ trở thành nguồn lực cho phát triển quốc gia, thay vì là gánh nặng cho các thế hệ sau”, TS. Nguyễn Đức Độ khẳng định.

 

Tính đến cuối năm 2025, các chỉ tiêu nợ công của Việt Nam tiếp tục được kiểm soát trong giới hạn an toàn. Theo đó, tỷ lệ nợ công so với GDP ước đạt 35-36%, nợ Chính phủ khoảng 33-34% GDP và nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 31-32% GDP.