Nâng cao năng suất lao động hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số ở Việt Nam
Nguyễn Lan Hương, Bùi Văn Huyền
TS.,PGS., TS., Viện Kinh tế - Xã hội và Môi trường, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh;
Email: nguyenlanhuong.npa@gmail.com
| ENHANCING LABOR PRODUCTIVITY TOWARD THE GOAL OF DOUBLE-DIGIT ECONOMIC GROWTH IN VIET NAM Summary Labor productivity is one of the core indicators reflecting the efficiency of an economy and serves as a key driver of sustainable economic growth. In the context of deepening international integration and rapid scientific and technological advancement, improving labor productivity has become an urgent requirement for all nations, particularly for developing economies like Viet Nam. This paper analyzes Viet Nam's labor productivity landscape to clarify its significance and role in achieving the goal of double-digit economic growth, as the country aims to reach upper- middle-income status by 2030. The findings reveal that although Viet Nam's labor productivity has grown steadily, its level remains relatively low, necessitating substantial improvements to meet high growth targets. The paper proposes key solutions focusing on technology adoption, workforce training, and institutional reform. Keywords: Labor productivity, economic growth, ASEAN-6, Viet Nam, double-digit growth |
ĐẠT VẤN ĐỀ
Tăng trưởng kinh tế có thể đạt được bằng nhiều cách thức khác nhau, thông qua việc tăng số lượng lao động, vốn đầu tư, hoặc năng suất lao động (NSLĐ). Tuy nhiên, mô hình tăng trưởng dựa vào mở rộng lao động và vốn đã bộc lộ nhiều hạn chế, bao gồm chi phí vốn cao, nợ công gia tăng, và áp lực lạm phát. Theo mô hình tăng trưởng Solow (1956), NSLĐ đóng vai trò trung tâm trong việc tăng sản lượng kinh tế thông qua cải thiện hiệu quả sử dụng lao động và các yếu tố sản xuất khác, đặc biệt là tiến bộ công nghệ và năng suất tổng hợp (Total Factor Productivity - TFP). Đối với các quốc gia đang phát triển như Việt Nam, NSLĐ là động lực chính thúc đẩy tăng trưởng GDP dài hạn (World Bank, 2022).
Thực tế cho thấy, NSLĐ của Việt Nam hiện nay khá thấp, là rào cản đối với tăng trưởng kinh tế nhanh. NSLĐ của Việt Nam, dù đã cải thiện đáng kể trong hai thập kỷ qua, nhưng vẫn ở mức thấp so với các quốc gia trong nhóm ASEAN-6 (bao gồm: Singapore, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Philippines, Brunei). Theo Tổ chức Lao động quốc tế - ILO (2023), NSLĐ của Việt Nam năm 2022 đạt khoảng 5.200 USD/lao động, chỉ bằng 11% của Singapore (47.000 USD), 36% của Malaysia (14.400 USD) và 50% của Thái Lan (10.400 USD). Mức NSLĐ thấp này xuất phát từ cơ cấu kinh tế phụ thuộc vào các ngành sử dụng lao động giá rẻ (như dệt may, nông nghiệp), trình độ công nghệ lạc hậu và tỷ lệ lao động được đào tạo bài bản thấp (chỉ 26% lực lượng lao động có trình độ chuyên môn (Tổng cục Thống kê, 2023) Với NSLĐ hiện tại, Việt Nam khó đạt được tốc độ tăng trưởng GDP hai con số, khó có thể gia tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế để có thể rút ngắn khoảng cách với các nước ASEAN-6.
Trong bối cảnh đó, Chính phủ Việt Nam đã đặt mục tiêu tăng trưởng GDP bình quân 7-8% giai đoạn 2021-2030 và đạt tốc độ tăng trưởng hai con số trong một số năm để sớm trở thành quốc gia thu nhập trung bình cao. Để đạt tốc độ tăng trưởng GDP 10%, NSLĐ cần tăng tối thiểu 6-7% mỗi năm, kết hợp với cải thiện hiệu quả sử dụng vốn (ICOR) và đổi mới công nghệ (Tổng cục Thống kê, 2023).
Thêm vào đó, Việt Nam đang đối mặt với thách thức từ già hóa dân số, với tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động dự kiến giảm từ năm 2030. Điều này làm giảm nguồn cung lao động, khiến tăng trưởng kinh tế phụ thuộc nhiều hơn vào NSLĐ thay vì mở rộng quy mô lao động. Do đó, nâng cao NSLĐ trở thành nhiệm vụ chiến lược của Việt Nam trong những năm tới. Việc nghiên cứu các giải pháp nâng cao NSLĐ không chỉ hỗ trợ thực hiện mục tiêu tăng trưởng hai con số mà còn giúp Việt Nam vượt qua bẫy thu nhập trung bình, đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững trong bối cảnh các nguồn lực ngày càng hạn chế.
NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG VỚI MỤC TIÊU TĂNG TRƯỞNG HAI CON SỐ Ở VIỆT NAM
Tăng năng suất lao động là động lực trực tiếp thúc đẩy tăng trưởng GDP hai con số
![]() |
NSLĐ là thước đo hiệu quả của quá trình sản xuất, phản ánh lượng sản phẩm hoặc giá trị tạo ra trên mỗi đơn vị lao động trong một khoảng thời gian nhất định. Theo ILO (2023), NSLĐ là giá trị sản lượng bình quân do một lao động tạo ra trong một đơn vị thời gian, thường được đo bằng giá trị gia tăng (hoặc sản lượng) trên mỗi lao động hoặc trên mỗi giờ làm việc. Theo Krugman (1994), NSLĐ là chỉ số cốt lõi phản ánh hiệu quả sử dụng nguồn lực lao động trong nền kinh tế, phản ánh năng lực sản xuất của lực lượng lao động trong các ngành kinh tế. NSLĐ cao hơn có nghĩa là nền kinh tế có thể sản xuất nhiều hơn với cùng một lượng lao động, hoặc sản xuất cùng một lượng sản phẩm với ít lao động hơn. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế và Cách mạng công nghiệp 4.0, NSLĐ trở thành yếu tố then chốt quyết định tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế, phản ánh hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực và công nghệ.
Giai đoạn 2015-2024, NSLĐ của Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể và duy trì sự tăng trưởng ổn định (Bảng 1). Tốc độ tăng NSLĐ trung bình trong thập kỷ vừa qua đạt trung bình 5-6%, trong đó, tốc độ tăng NSLĐ bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt khoảng 5,8%/năm, cao hơn mức 4,3%/năm của giai đoạn 2011-2015. Năm 2024, NSLĐ của Việt Nam tăng 5,88%, cao hơn mục tiêu đã đề ra và là mức tăng cao nhất trong những năm gần đây.
Tăng NSLĐ giúp Việt Nam sản xuất nhiều giá trị hơn với cùng nguồn lực, tạo động lực trực tiếp và bền vững cho mục tiêu tăng trưởng hai con số.
Tăng năng suất lao động tạo nền tảng cho tăng trưởng kinh tế chất lượng cao
Tăng NSLĐ cho phép tạo ra nhiều giá trị gia tăng hơn với cùng một lượng đầu vào, đảm bảo tăng trưởng kinh tế không chỉ nhanh mà còn chất lượng cao, giảm áp lực lên tài nguyên và môi trường. Khác với tăng trưởng "nóng" dựa vào đầu tư công hoặc khai thác tài nguyên, tăng trưởng dựa vào NSLĐ giúp duy trì ổn định kinh tế vĩ mô, tránh các rủi ro như lạm phát cao hay nợ công tăng nhanh.
Tại Việt Nam, chỉ số hiệu quả sử dụng vốn (ICOR) hiện ở mức cao (khoảng 6,1 trong giai đoạn 2016-2020), cho thấy hiệu quả đầu tư còn thấp, đòi hỏi NSLĐ phải tăng để bù đắp (World Bank, 2022). Chẳng hạn, ngành Công nghiệp chế biến - chế tạo, đóng góp 25% GDP, cần tăng NSLĐ thông qua tự động hóa và công nghệ cao để duy trì tốc độ tăng trưởng 10% mà không phụ thuộc vào tăng vốn đầu tư. Hơn nữa, tăng NSLĐ phù hợp với cam kết Net Zero 2050 của Việt Nam, vì sản xuất hiệu quả hơn giúp giảm phát thải khí nhà kính và sử dụng tài nguyên bền vững (Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2022). Do đó, tăng NSLĐ là nền tảng để Việt Nam
đạt tăng trưởng hai con số một cách bền vững và chất lượng cao.
Tăng năng suất lao động nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia
NSLĐ cao giúp giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, và mở rộng thị phần xuất khẩu, từ đó tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập sâu rộng qua các hiệp định thương mại tự do (Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương - CPTPP, Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - EU - EVFTA, Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực - RCEP), NSLĐ là yếu tố then chốt để cạnh tranh với các quốc gia có trình độ công nghệ và quản trị tiên tiến như Singapore hay Hàn Quốc. Ví dụ, ngành Dệt may Việt Nam đạt kim ngạch xuất khẩu 44 tỷ USD năm 2022, nhưng NSLĐ thấp khiến giá trị gia tăng chỉ khoảng 20%, chủ yếu do phụ thuộc vào gia công và lao động giá rẻ (VCCI, 2023).
Tăng NSLĐ sẽ giúp Việt Nam chuyển từ gia công - lắp ráp sang sản xuất có hàm lượng công nghệ và tri thức cao, như điện tử, phần mềm, và năng lượng tái tạo. Theo McKinsey (2023), nếu NSLĐ tăng gấp đôi trong thập kỷ tới, xuất khẩu Việt Nam có thể tăng trưởng 15-20% mỗi năm, tạo động lực mạnh mẽ cho mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số. Ngoài ra, NSLĐ cao thu hút đầu tư nước ngoài (FDI), đặc biệt từ các đối tác như Mỹ, Liên minh châu Âu và Nhật Bản, vốn ưu tiên các quốc gia có lao động hiệu quả. Trong năm 2024, FDI vào Việt Nam đạt 36,6 tỷ USD, nhưng để duy trì dòng vốn này, NSLĐ cần cải thiện để đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.
Tăng năng suất lao động thúc đẩy thu nhập, tiêu dùng và giảm bất bình đẳng
Tăng NSLĐ làm tăng giá trị gia tăng trên mỗi lao động, tạo điều kiện cải thiện tiền lương thực tế và phúc lợi xã hội. Theo OECD (2021), các quốc gia có NSLĐ cao thường có thu nhập bình quân đầu người cao hơn và tỷ lệ nghèo thấp hơn. Tại Việt Nam, mức lương tối thiểu hiện nay (khoảng 4,7 triệu VND/tháng ở vùng I năm 2023) khó đáp ứng nhu cầu sống, đặc biệt khi chỉ 28,8% lao động được đào tạo chuyên môn (Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, 2023; Cục Thống kê, 2025). Tăng NSLĐ sẽ giúp doanh nghiệp có khả năng tăng lương, từ đó kích thích tiêu dùng nội địa - một trong ba động lực chính của tăng trưởng GDP (bên cạnh đầu tư và xuất khẩu).
Hơn nữa, tăng NSLĐ giúp giảm bất bình đẳng thu nhập giữa khu vực nông thôn và đô thị. Hiện nay, NSLĐ trong nông nghiệp (chiếm 40% lực lượng lao động nhưng chỉ 15% GDP) chỉ bằng 1/3 mức trung bình quốc gia (Tổng cục Thống kê, 2023). Tăng NSLĐ, đặc biệt trong nông nghiệp thông qua cơ giới hóa và công nghệ cao, sẽ cải thiện thu nhập cho lao động nông thôn, thu hẹp khoảng cách đô thị - nông thôn và hỗ trợ tăng trưởng bao trùm, một yếu tố quan trọng để đạt mục tiêu GDP hai con số.
Tăng năng suất lao động hỗ trợ tái cơ cấu kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng
Tăng NSLĐ thúc đẩy dịch chuyển lao động từ các ngành năng suất thấp (như nông nghiệp) sang các ngành năng suất cao (như công nghiệp chế biến - chế tạo, dịch vụ tri thức), qua đó hiện đại hóa cơ cấu kinh tế. Tại Việt Nam, nông nghiệp chiếm 40% lực lượng lao động nhưng chỉ đóng góp 15% GDP, trong khi công nghiệp chế biến - chế tạo đóng góp 25% GDP với chỉ 20% lao động (Tổng cục Thống kê, 2023). Việc nâng cao NSLĐ, đặc biệt trong nông nghiệp thông qua cơ giới hóa, công nghệ cao và chuyển đổi số, sẽ thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và giảm chênh lệch năng suất giữa các ngành.
Việt Nam đang chuyển từ mô hình tăng trưởng dựa trên lao động giá rẻ và khai thác tài nguyên sang mô hình dựa trên đổi mới sáng tạo và giá trị gia tăng cao, như xác định trong Nghị quyết số 29- NQ/TW ngày 17/11/2022 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Tăng NSLĐ là điều kiện tiên quyết để thực hiện quá trình này, hỗ trợ các ngành công nghệ cao như điện tử, phần mềm và năng lượng tái tạo phát triển, từ đó tạo nền tảng cho tăng trưởng GDP hai con số. Ví dụ, ngành Công nghệ thông tin Việt Nam, với NSLĐ cao gấp 3 lần trung bình quốc gia, đã đóng góp 14% vào tăng trưởng xuất khẩu năm 2024 (Bộ Thông tin và Truyền thông, 2025).
GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG VIỆT NAM GÓP PHẦN THỰC HIỆN MỤC TIÊU TĂNG TRƯỞNG HAI CON SỐ
NSLĐ không chỉ là động lực trực tiếp thúc đẩy GDP mà còn tạo nền tảng cho tăng trưởng chất lượng cao, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, cải thiện thu nhập và tiêu dùng và hỗ trợ tái cơ cấu kinh tế. Do đó, tăng NSLĐ mang ý nghĩa chiến lược đối với mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số của Việt Nam. Trong bối cảnh già hóa dân số, hội nhập quốc tế và CMCN 4.0, các giải pháp tăng NSLĐ cần tập trung vào nâng cao kỹ năng lao động, ứng dụng công nghệ và cải cách thể chế để đạt được mục tiêu này.
Một là, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Chất lượng nguồn nhân lực thấp là một nút thắt đối với quá trình thực hiện mục tiêu tăng trưởng ở các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Theo Tổng cục Thống kê (2023), lực lượng lao động chất lượng cao của nước ta thiếu về số lượng và yếu về chất lượng (chỉ có 26% lao động được đào tạo chuyên môn và thiếu kỹ năng số) dẫn đến NSLĐ thấp hơn mức trung bình của ASEAN-6. Do đó, cần phải nâng cao chất lượng nguồn nhân lực để có thể gia tăng hiệu quả sản xuất.
Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, Chính phủ (trong đó Bộ Giáo dục và Đào tạo là đầu mối) cần phối hợp với các doanh nghiệp, địa phương triển khai xây dựng chương trình đào tạo quốc gia tập trung vào kỹ năng số và nghề nghiệp phù hợp CMCN 4.0, với mục tiêu đào tạo 50% lao động trẻ (15-35 tuổi) đến năm 2030. Triển khai qua các mô hình hợp tác công - tư (PPP), kết nối trường đại học với doanh nghiệp để đào tạo thực hành, như chương trình "Kỹ năng số cho lao động" với nội dung trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT) và phân tích dữ liệu. Đầu tư 2% GDP vào giáo dục và đào tạo nghề, ưu tiên khu vực nông thôn và miền núi (McKÌnsey, 2023).
Hai là, ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số. NSLĐ của Việt Nam còn hạn chế một phần lớn là do công nghệ lạc hậu. Theo Bộ Công Thương (2023), chỉ 10% doanh nghiệp áp dụng CMCN 4.0 vào sản xuất; đồng thời, tỷ lệ nghiên cứu và phát triển (R&D) cũng ở mức thấp, chỉ chiếm 0,5% GDP (UNESCO, 2023), dẫn đến NSLĐ tăng chậm và phụ thuộc lao động giá rẻ. Hạn chế này làm Việt Nam xếp hạng thấp trong ASEAN về đổi mới.
Chính vì vậy, để khắc phục hạn chế này, Chính phủ cần phối hợp và giám sát các doanh nghiệp lớn triển khai các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp áp dụng công nghệ 4.0, với mục tiêu 30% doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng AI và IoT đến năm 2030. Thực hiện qua ưu đãi thuế (giảm 50% thuế cho đầu tư công nghệ) và quỹ hỗ trợ (1.000 tỷ VND/năm), kết hợp với các nền tảng số quốc gia như "Chuyển đổi số doanh nghiệp" (theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/06/2020 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030). Khuyến khích hợp tác quốc tế để chuyển giao công nghệ từ Hàn Quốc, Nhật Bản.
Ba là, cải thiện quản trị doanh nghiệp và thể chế. Để khắc phục những hạn chế về thể chế đang cản trở sự gia tăng NSLĐ, Chính phủ, địa phương cần đẩy mạnh thực hiện cải cách hành chính, đặc biệt đẩy mạnh chuyển đổi số trong quản lý hành chính công; Nghiêm túc thực hiện mục tiêu giảm thời gian xử lý thủ tục hành chính từ 10 ngày xuống còn 3 ngày cho doanh nghiệp. Đồng thời, xây dựng khung pháp lý đồng bộ cho chuyển đổi số; triển khai các chương trình đào tạo quản trị rủi ro cho doanh nghiệp và minh bạch hoá chính sách.
Bốn là, tái cơ cấu kinh tế và chuyển dịch lao động. Đến nay, cơ cấu kinh tế nước ta dù đã có sự chuyển dịch theo hướng tích cực nhưng vẫn bộc lộ sự bất hợp lý khi ngành Nông nghiệp sử dụng tới 40% lao động nhưng lại chỉ đóng góp khoảng 15% GDP năm 2023, cho thấy sự chênh lệch NSLĐ giữa các ngành. Để khắc phục vấn đề này, cần đẩy mạnh dịch chuyển lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, với mục tiêu giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp xuống 30% vào năm 2030, thông qua việc triển khai chương trình "Một triệu lao động chất lượng cao", kết hợp với các khu công nghiệp mới và hỗ trợ di cư lao động.
Năm là, tăng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D) và đổi mới sáng tạo. Chính phủ cần tăng đầu tư cho nghiên cứu và phát triển, thành lập các quỹ hỗ trợ đổi mới và thực hiện các chính sách ưu đãi thuế để khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và đầu tư nghiên cứu và phát triển. Đồng thời, Chính phủ cũng cần triển khai các chương trình hợp tác quốc tế để thúc đẩy chuyển giao công nghệ hiện đại giữa các doanh nghiệp nước ngoài với doanh nghiệp trong nước.B
Tài liệu tham khảo:
- Đảng Cộng sản Việt Nam (2021). Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứXIII, tập 2. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật.
- ILO (2023). Asia-Pacific Employment and Social Outlook 2023. International Labour Organization. https://www.ilo.org/ asia/publications/WCMS_880631/lang~en/index.htm
- /LO (2023). Asia-Pacifíc Employment Outlook. https://www.ilo.org/
- Krugman, p. (1994). The myth ofAsia's miracle. Poreign Affairs, 73(6), 62-78. https://www.foreignaffairs.com/articles/ asia/1994-11-01/myth-asias-miracle
- McKinsey và Company (2023). Vietnam's Next Leap. https://www.mckinsey.com/
- McMillan, M., et al. (2014). Globalization, structural change, and productivity growth. VVorld Development, 57, 11-26. https://doi.Org/10.1016/j. worlddev.2013.10.023
- Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê) (2022, 2023, 2024). Niên giám thống kê các năm 202, 2023, 2024.
- Tổng cục Thống kê (nay là Cục Thống kê) (2023). Báo cáo lao động 2022. https://www.gso.gov.vn/
- UNESCO (2023). Global Innovation Index. https://www.wipo.int/
- VCCI (2023). Báo cáo hội nhập kinh tể. https://vcci.com.vn/
- WIP0 (2023). Global Innovation Index. https://www.wipo.int/
- World Bank (2022). Vletnam Productivity Growth. https://www.worldbank.org/
| Ngày nhận bài: 25/9/2025; Ngày hoàn thiện biên tập: 7/10/2025; Ngày duyệt đăng: 24/10/2025 |
Tin tức khác
TP. Hồ Chí Minh: Xử phạt hành chính 36 doanh nghiệp chậm đóng bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm - Ngân hàng
MB triển khai thẻ MB Visa Hi BIZ cho doanh nghiệp trong nước
Bảo hiểm - Ngân hàng
Chính sách tài khóa tạo động lực tăng trưởng cho nền kinh tế
Nghiên cứu - Trao đổi
Vietcombank giữ vững vị thế Ngân hàng có môi trường làm việc tốt nhất Việt Nam
Bảo hiểm - Ngân hàng
TP. Hồ Chí Minh: Gần 20.000 doanh nghiệp chậm đóng bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm - Ngân hàng
VPBank thanh lý tài sản đảm bảo, giá thấp hơn thị trường 10-20%
Bảo hiểm - Ngân hàng
Hạ tầng VietQR được mở rộng cho thanh toán nội địa và xuyên biên giới
Bảo hiểm - Ngân hàng
MultiMedia
INFOGRAPHIC: 6 nhóm hàng xuất khẩu "chục tỷ đô" của doanh nghiệp FDI
VIDEO: Bộ Tài chính đề xuất nâng mức doanh thu miễn thuế lên 500 triệu đồng/năm
INFOGRAPHIC: Chương trình 1719 tại tỉnh Lào Cai: 5 năm bứt phá, chuyển biến toàn diện
INFOGRAPHIC: Chương trình Mục tiêu quốc gia 1719 giai đoạn II (2026–2030): Trao quyền cho địa phương, tạo bứt phá từ vùng lõi nghèo
VIDEO: Bộ Tài chính đề xuất thu thuế trên thu nhập, chính thức xóa bỏ thuế khoán
Thúc đẩy hợp tác kinh tế - đầu tư Việt – Lào lên tầm cao mới
Tài chính
TP. Hồ Chí Minh: Đóng góp thêm 20 tỷ đồng hỗ trợ đồng bào bị bão, lũ
Thời sự
TP. Hồ Chí Minh: Chuyển đổi kép để xây dựng đô thị thông minh
Thời sự
Đề xuất đầu tư cao tốc Vinh - Thanh Thủy hơn 25.300 tỷ đồng
Thời sự
Quản lý tài chính - ngân sách hiệu quả, hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế
Thời sự
Bỏ độc quyền cho vay lại, rút gọn thủ tục ODA trong dự thảo Luật Quản lý nợ công sửa đổi
Hoạt động của Lãnh đạo Bộ Tài chính
Quyết liệt các giải pháp để đạt tăng trưởng trên 8%
Tài chính
Cần khoảng một tháng để khắc phục sự cố điện ở Phú Quốc
Thời sự
Thúc đẩy hợp tác kinh tế - đầu tư Việt – Lào lên tầm cao mới
Tài chính
Đề xuất cơ chế đột phá giúp TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng bứt phá sau mở rộng địa giới
Tài chính
Kinh tế - xã hội TP. Hà Nội tháng 11 tiếp tục chuyển biến tích cực
Tài chính
Bộ Tài chính tổ chức khóa đào tạo Bảo mật Đám mây cho tổ chức
Chuyển đổi số
Bộ Tài chính lấy ý kiến cho Dự thảo thông tư về giám sát thị trường chứng khoán
Tài chính
Sở Tài chính Cà Mau đề xuất giao 60 cơ sở nhà, đất dôi dư để bán đấu giá, đầu tư
Tài chính
Hoàn thiện Nghị định xử phạt lĩnh vực giá: Làm rõ thẩm quyền, tránh chồng chéo
Pháp luật











