Liên kết chuỗi giá trị: “Trục xoay” tái cơ cấu nông nghiệp Việt Nam
Sau 6 năm triển khai Nghị định số 98/2018/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ nông sản, nền nông nghiệp Việt Nam đã chứng kiến một sự chuyển mình mạnh mẽ. Từ mô hình sản xuất manh mún, rời rạc, nay hàng nghìn chuỗi liên kết giữa nông dân, hợp tác xã (HTX) và doanh nghiệp đã được hình thành, trở thành "trục xoay" của quá trình tái cơ cấu nông nghiệp, đưa sản phẩm Việt Nam tiến sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Gần 3.000 dự án liên kết kéo hơn 200.000 hộ nông dân
Theo số liệu từ Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tính đến nay, cả nước đã có 2.938 dự án liên kết sản xuất - tiêu thụ nông sản, kết nối hơn 200.000 hộ nông dân với các doanh nghiệp, HTX và tổ hợp tác. Trong số này, 2.331 dự án do HTX chủ trì, khẳng định vai trò trung tâm của kinh tế tập thể trong tổ chức chuỗi giá trị nông nghiệp.
Tổng kinh phí thực hiện các dự án đạt hơn 15.200 tỷ đồng, trong đó ngân sách nhà nước hỗ trợ khoảng 3.186 tỷ đồng, chiếm 20,9%. Mức hỗ trợ này tuy không lớn, nhưng mỗi đồng ngân sách đã thu hút được 4,6 đồng vốn xã hội, tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ trong toàn ngành.
Nhiều ngành hàng chủ lực như lúa gạo, rau quả, cà phê, hồ tiêu, cao su đã hình thành chuỗi giá trị chặt chẽ, chuẩn hóa quy trình sản xuất, truy xuất nguồn gốc và nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các địa phương cũng đã phê duyệt 1.738 chuỗi liên kết đối với sản phẩm chủ lực quốc gia, góp phần hình thành các vùng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, tạo nền tảng cho phát triển nông nghiệp hiện đại, hiệu quả.
Trong bức tranh liên kết nông nghiệp, HTX được xem là "xương sống" của chuỗi giá trị. Với vai trò tổ chức vùng nguyên liệu, thống nhất quy trình kỹ thuật, kiểm soát chất lượng và đảm bảo thực hiện hợp đồng, HTX giúp nông dân tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng.
Khoảng 60% HTX khi tham gia chuỗi đã mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao năng lực quản trị và cải thiện thu nhập cho thành viên. Nhờ đó, hàng loạt vùng nguyên liệu lớn đạt chuẩn quốc tế đã ra đời, từ gạo ST25 ở Sóc Trăng, cà phê Buôn Ma Thuột, hạt điều Bình Phước đến trái cây Nam Bộ, góp phần nâng tầm thương hiệu nông sản Việt trên thị trường toàn cầu.
Liên kết phải chuyển từ "lượng" sang "chất": Hướng tới kinh tế xanh, số
Theo Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, Nghị định số 98 đã tạo bước chuyển căn bản trong tư duy và cách thức tổ chức sản xuất nông nghiệp. Từ liên kết tự phát, thiếu khung pháp lý, nay mô hình này đã trở thành phương thức sản xuất phổ biến, được Nhà nước, doanh nghiệp và người dân đồng thuận thúc đẩy.
Tỷ lệ giá trị sản phẩm nông nghiệp được sản xuất dưới hình thức hợp tác, liên kết đã tăng gấp 3 lần so với năm 2016, đạt hơn 32% vào cuối năm 2025. Riêng các sản phẩm chủ lực có tỷ lệ liên kết đạt từ 40% đến gần 65%.
Chuỗi liên kết giúp giảm phụ thuộc vào thương lái, mở rộng thị trường xuất khẩu (Nhật Bản, EU, Mỹ); nông dân tham gia chuỗi có thu nhập cao hơn 10 - 20% so với sản xuất đơn lẻ. Doanh nghiệp kiểm soát nguồn nguyên liệu, giảm rủi ro, nâng uy tín.
Tuy nhiên, quá trình triển khai vẫn còn nhiều hạn chế: Nhiều dự án mới dừng ở hợp đồng tiêu thụ, chưa hình thành chuỗi giá trị toàn diện; tính bền vững chưa cao; Chính sách hỗ trợ vẫn mang tính dự án, thiếu cơ chế khuyến khích đổi mới và ứng dụng công nghệ xanh; Hạ tầng số và dữ liệu về vùng nguyên liệu còn phân tán, thiếu chuẩn hóa.
Cục trưởng Cục Kinh tế hợp tác nhận định, liên kết nông nghiệp Việt Nam hiện "đã hình thành về lượng nhưng chưa vững về chất". Thủ tục hỗ trợ còn rườm rà, năng lực HTX chưa đủ mạnh, và mô hình liên kết số, xanh chưa được chú trọng.
Dù còn nhiều thách thức, Nghị định 98 vẫn được đánh giá là "chìa khóa thể chế" giúp nông nghiệp Việt Nam tiến gần hơn đến mô hình hiện đại, thích ứng biến đổi khí hậu.
Hướng tới giai đoạn phát triển mới và cam kết Net Zero vào năm 2050, Bộ NN&PTNT xác định liên kết chuỗi giá trị xanh và số sẽ là động lực trọng tâm. Bộ đề xuất bốn định hướng chiến lược: Cải cách thủ tục hành chính và cơ chế hỗ trợ, lấy hiệu quả chuỗi giá trị làm tiêu chí trung tâm; Phát triển chuỗi giá trị số và xanh, ứng dụng công nghệ trong truy xuất nguồn gốc, giảm phát thải và thúc đẩy thương mại tín chỉ carbon; Tổ chức lại sản xuất gắn với vùng nguyên liệu đạt chuẩn, công khai thông tin qua mã số vùng trồng và bản đồ số hóa; Xây dựng hệ sinh thái tư vấn liên kết chuyên nghiệp, đảm bảo lợi ích hài hòa giữa nông dân, HTX và doanh nghiệp.
Hiện tại, Bộ NN&PTNT đang hoàn thiện dự thảo nghị định thay thế Nghị định 98, bổ sung cơ chế khuyến khích phát triển chuỗi giá trị xanh và vùng nguyên liệu đạt chuẩn phục vụ xuất khẩu, gắn kết với các chương trình lớn như Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phát thải thấp vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Liên kết chuỗi giá trị không chỉ là phương thức sản xuất mà đang trở thành trục xoay của nền kinh tế carbon thấp, giúp nông nghiệp Việt Nam tiến vững chắc trên con đường hiện đại hóa, xanh hóa và hội nhập toàn cầu.

















