Hoàn thiện khung pháp lý thúc đẩy phát triển tài chính xanh
Tài chính xanh đóng vai trò quan trọng góp phần giúp các quốc gia đạt được mục tiêu phát triển bền vững. Nó mang lại nhiều lợi ích cho cả cá nhân và doanh nghiệp, như: khuyến khích phổ biến công nghệ và phát triển cơ sở hạ tầng thân thiện với môi trường, tạo ra lợi thế so sánh và nâng cao triển vọng kinh tế. Với vai trò quan trọng đó, trong những năm qua, Việt Nam đã, đang hoàn thiện Hoàn thiện khung pháp lý thúc đẩy phát triển tài chính xanh, hướng đến nền tài chính bền vững.

Tại Việt Nam, khung pháp lý thúc đẩy phát triển tài chính xanh bắt đầu được hình thành khi Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050 được Chính phủ phê duyệt với 03 nhiệm vụ trọng tâm, gồm: (i) Giảm phát thải khí nhà kính; (ii) Xanh hóa sản xuất và (iii) Xanh hóa lối sống và tiêu dùng bền vững. Tiếp đó, Quyết định số 1393/QĐ-TTg ngày 25/09/2012 phê duyệt về “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2050”, trong đó, xác định tăng trưởng xanh là cách thức phát triển phù hợp với yêu cầu đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh tế trong giai đoạn sắp tới của Việt Nam.
Đáng chú ý, Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI và Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 23/01/2014 của Chính phủ đã đề ra các mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu.
Trong đó, giải pháp về tài chính đóng vai trò quan trọng nhằm tạo ra nguồn lực cả trực tiếp và gián tiếp để các cấp, các ngành, các đối tượng liên quan có điều kiện triển khai được các nhiệm vụ. Quyết định số 403/QĐ-TTg ngày 20/3/2014 phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014-2020 với 4 chủ đề chính là (i) Xây dựng thể chế và kế hoạch tăng trưởng xanh tại địa phương; (ii) Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; (iii) Thực hiện xanh hóa sản xuất; (iv) Thực hiện xanh hóa lối sống và tiêu dùng bền vững.
Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 phê duyệt “Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050” với mục tiêu giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên GDP, xanh hóa các ngành kinh tế, áp dụng mô hình kinh tế tuần hoàn ….
Trên cơ sở đó, hệ thống văn bản chính sách, pháp luật về tài chính xanh từng bước được hoàn thiện, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp huy động nguồn vốn xanh trong nước và quốc tế như Nghị định số 95/2018/NĐ-CP của Chính phủ quy định về trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương xanh.
Luật Bảo vệ môi trường 2020 quy định về lộ trình phát triển thị trường cacbon, về tín dụng xanh (Điều 149) và trái phiếu xanh (Điều 150). Nghị định số 08/2022/NĐ-CP ngày 10/01/2022 quy định về các danh mục dự án được cấp tín dụng xanh và phát hành trái phiếu xanh…
Đến nay, thị trường tài chính xanh tại Việt Nam đã định hình nền tảng và phát triển với 3 cấu phần, gồm: thị trường tín dụng xanh; thị trường cổ phiếu xanh và trái phiếu xanh.
Việc phát triển các trung gian tài chính xanh, ngân hàng xanh đã có những bước tiến đáng kể, điển hình là việc ban hành Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam.
Hiện nay, Việt Nam đã có 19 tổ chức tín dụng xây dựng chiến lược quản lý rủi ro môi trường xã hội, trong đó có 13 tổ chức tích hợp nội dung quản lý rủi ro môi trường xã hội vào quy trình hoạt động tín dụng xanh, 10 tổ chức xây dựng được sản phẩm tín dụng ngân hàng cho tín dụng xanh, 17 tổ chức sử dụng sổ tay đánh giá rủi ro môi trường xã hội cho 10 ngành kinh tế[1].
Mặc dù vậy, hệ thống pháp luật về tài chính xanh của Việt Nam đã đang được hoàn thiện nhưng vẫn chưa đồng bộ. Các quy định cụ thể về triển khai, vận hành thị trường vẫn đang trong quá trình nghiên cứu, chưa được ban hành, điển hình như chính sách đối với trái phiếu xanh mới vẫn đang ở mức thử nghiệm.
Đối với cổ phiếu xanh, chưa có khung chính sách phát triển thị trường cũng như các quy định về các sản phẩm (quy cách, điều kiện phát hành…), thị trường mới đang ở trong giai đoạn tạo lập. Đặc biệt, hệ thống thông tin, tuyên truyền và sự hiểu biết về cổ phiếu xanh, trái phiếu xanh còn nhiều hạn chế.
Tính đến nay, Việt Nam chưa có dòng ngân sách riêng cho ứng phó với biến đổi khí hậu mà được hòa chung với ngân sách về môi trường. Trong việc triển khai tín dụng xanh, thách thức hiện hữu nhất là rào cản về lượng vốn lớn, thời gian đầu tư lâu dài, hiệu quả tài chính chưa cao, các dự án đầu tư xanh luôn tiềm ẩn rủi ro... dẫn đến khó khăn, thách thức trong quá trình thực hiện quy trình lựa chọn, thẩm định, đánh giá và giám sát hoạt động tín dụng xanh.
Như vậy, có thể thấy, phát triển tài chính xanh ở Việt Nam là hướng đi đúng đắn, cần thiết trong việc triển khai chiến lược tăng trưởng xanh. Song cũng như các quốc gia đang phát triển khác, lộ trình này còn nhiều thách thức, trong đó trọng tâm là những vấn đề về: nhận thức về tài chính xanh còn hạn chế; ii) chính sách, luật pháp còn thiếu hoặc chưa hỗ trợ hiệu quả việc phát triển tài chính xanh; các sản phẩm tài chính xanh chưa được phong phú; nguồn tài chính hỗ trợ cho các dự án xanh, sản phẩm xanh còn hạn chế.