Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
TS. Hoàng Thị Minh Châu
Trường Đại học Công đoàn
Email: chau@dhcd.edu.vn
Tóm tắt
Giai đoạn 2020-2024, Việt Nam thu hút gần 457 tỷ USD vốn đấu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), trong đó vốn thực hiện đạt khoảng 287 tỷ USD. Tuy nhiên, thu hút nguồn vốn FDI còn gặp hạn chếnhư: chất lượng dự án chưa cao, giải ngân thấp và liên kết yếu với doanh nghiệp nội địa... Để nâng cao hiệu quả thu hút FDI, Việt Nam cấn hoàn thiện thể chế, phát triển hạ tầng đồng bộ, đào tạo nhân lực chất lượng cao và thu hút có chọn lọc vào lĩnh vực giá trị gia tăng cao. Đồng thời, cần tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp nước ngoài và nội địa nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong nước, hướng tới phát triển bền vững và nâng cao vị thếtrong chuỗi giá trị toàn cầu.
Từ khóa: Đáu tư nước ngoài tại Việt Nam, hiệu quả, thu hút, vốn FDI
Summary
Between 2020 and 2024, Viet Nam attracted about USD 457 billion in foreign investment, of which approximately USD287billion was disbursed. However, the attraction of foreign direct investment (FDI) faces limitations, including low project quality, slow disbursement rates, and weak linkages with domestic enterprises. In order to improve the effectiveness of FDI attraction, Viet Nam needs to improve its institutional framework, develop synchronized infrastructure, invest in high-quality human resource training, and selectively attract investment into high value-added sectors. Additionally, it is necessary to strengthen linkages between foreign and domestic enterprises in order to enhance domestic production capacity, promote sustainable development, and improve Viet Nam's position in the global value chain.
Keywords: Foreign direct investment in Viet Nam, effectiveness, attraction, FDI capital
GIỚI THIỆU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã trở thành nguồn lực quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, chuyển giao công nghệ, tạo việc làm và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Việt Nam là một trong những quốc gia đang phát triển thu hút được dòng vốn FDI khá mạnh mẽ trong khu vực Đông Nam Á nhờ lợi thế về vị trí địa lý, nền chính trị ổn định, chi phí lao động cạnh tranh và các cam kết hội nhập quốc tế sâu rộng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được trong thời gian qua, việc thu hút và sử dụng FDI tại Việt Nam vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, điển hình như: chất lượng FDI chưa cao, phân bố không đồng đều giữa các vùng, tỷ lệ giải ngân thấp và sự liên kết hạn chế với khu vực kinh tế trong nước...
Giai đoạn từ năm 2020 đến năm 2024, Việt Nam tiếp tục là điểm đến hấp dẫn của nhiều nhà đầu tư nước ngoài với tổng vốn FDI đăng ký lũy kế đạt khoảng 457 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện khoảng 287 tỷ USD. Riêng trong năm 2024, tổng vốn FDI đăng ký đạt 36,6 tỷ USD, tăng 32% so với cùng kỳ năm trước. Tuy nhiên, sự cạnh tranh trong khu vực ngày càng gay gắt khi các quốc gia như: Indonesia, Malaysia, Philippines cũng liên tục cải thiện môi trường đầu tư và đưa ra các chính sách ưu đãi hấp dẫn.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu để nhận diện rõ thực trạng, những yếu tố ảnh hưởng và đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả thu hút FDI là một vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn trong bối cảnh mới - bối cảnh hội nhập sâu, rộng và vươn mình.
Thực trạng thu hút FDI tại Việt Nam
Trong hơn 3 thập kỷ qua, Việt Nam đã trở thành điểm đến hấp dẫn của dòng vốn FDI nhờ môi trường chính trị ổn định, nguồn lao động dồi dào, chi phí cạnh tranh và các chính sách ưu đãi đầu tư tương đối thuận lợi. Theo số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến hết năm 2024, Việt Nam đã thu hút được tổng cộng hơn 37.000 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký khoảng 457 tỷ USD, trong đó vốn thực hiện đạt gần 287 tỷ USD.
Năm 2024, mặc dù chịu tác động từ bất ổn kinh tế toàn cầu, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam vẫn đạt 36,6 tỷ USD, tăng 32% so với năm trước - mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2019. Các lĩnh vực thu hút nhiều FDI nhất gồm công nghiệp chế biến chế tạo, bất động sản và năng lượng tái tạo. Riêng ngành công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm khoảng 60% tổng vốn FDI đăng ký mới, khẳng định vai trò trụ cột của lĩnh vực này trong nền kinh tế.
Tính đến ngày 31/3/2025, tổng vốn FDI đăng ký vào Việt Nam đạt 10,98 tỷ USD, tăng 34,7% so với cùng kỳ năm 2024. Trong đó: 850 dự án mới được cấp phép với tổng vốn đăng ký đạt 4,33 tỷ USD, tăng 11,5% về số lượng dự án nhưng giảm 31,5% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm trước. 401 dự án điều chỉnh vốn đầu tư với tổng giá trị tăng thêm 5,16 tỷ USD, gấp 5 lần so với cùng kỳ năm trước. 810 lượt góp vốn, mua cổ phần với tổng giá trị 1,49 tỷ USD, tăng 83,7% so với cùng kỳ năm trước. Vốn FDI thực hiện trong 3 tháng đầu năm 2025 ước đạt 4,96 tỷ USD, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục dẫn đầu với số vốn đăng ký mới đạt 2,62 tỷ USD, chiếm 60,5% tổng vốn đăng ký cấp mới. Ngành kinh doanh bất động sản đứng thứ hai với 1,13 tỷ USD, chiếm 26,1% tổng vốn đăng ký cấp mới.
Về đối tác đầu tư, các quốc gia và vùng lãnh thổ dẫn đầu về vốn đầu tư vào Việt Nam bao gồm Singapore, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và Hồng Kông. Singapore là quốc gia dẫn đầu về vốn đầu tư mới vào Việt Nam trong quý I/2025 với 1,32 tỷ USD; tiếp theo là Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản. Trong khi đó, Hàn Quốc duy trì vai trò là một trong những nhà đầu tư chiến lược lâu dài với nhiều dự án lớn trong lĩnh vực điện tử, sản xuất linh kiện, bán lẻ và tài chính.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp Việt cũng tìm kiếm các cơ hội mới từ các quốc gia trên thế giới. Trong quý I/2025, Việt Nam đã đầu tư ra nước ngoài với tổng vốn đạt gần 239 triệu USD, gấp 9,5 lần so với cùng kỳ năm trước. Các lĩnh vực đầu tư chủ yếu bao gồm: Sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí 111,2 triệu USD, chiếm 46,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo 65,6 triệu USD, chiếm 27,4%; khai khoáng 41 triệu USD, chiếm 17,1%. Lào là quốc gia nhận đầu tư lớn nhất từ Việt Nam với 139,7 triệu USD, chiếm 58,4% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài.
| Theo số liệu từ Bộ Kế hoạch và Đầu tư (nay là Bộ Tài chính), tính đến hết năm 2024, Việt Nam đã thu hút được tổng cộng hơn 37.000 dự án FDI còn hiệu lực với tổng vố'n đăng ký khoảng 457 tỷ USD, trong đó vố'n thực hiện đạt gần 287 tỷ USD. |
Tuy đạt được những kết quả đáng ghi nhận, thu hút FDI tại Việt Nam vẫn tồn tại một số bất cập. Cụ thể:
Phân bo'FDI chưa đồng đêu: FDI tập trung chủ yếu ở các tỉnh thành có hạ tầng phát triển như Hà Nội, TP.HCM, Bắc Ninh, Hải Phòng, Bình Dương, trong khi các khu vực miền Trung, Tây Nguyên và Tây Bắc còn ít hấp dẫn nhà đầu tư.
Chất lượng và giá trị gia tăng còn tháp: Nhiều dự án FDI vẫn chủ yếu là gia công, lắp ráp, sử dụng công nghệ trung bình và thấp, chưa tạo ra nhiều giá trị gia tăng hoặc chuyển giao công nghệ hiệu quả.
Tỷ lệ giải ngân chưa tương xứng: So với tổng vốn đăng ký, tỷ lệ vốn thực hiện mới chỉ đạt khoảng 63%, cho thấy vẫn còn những vướng mắc trong quá trình triển khai dự án.
Liên kết với doanh nghiệp trong nước còn yếu: Các doanh nghiệp FDI ít gắn kết với khu vực doanh nghiệp nội địa, dẫn đến hạn chế trong việc lan tỏa công nghệ và nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
Rủi ro về môi trường và chuyển giá: Một số dự án FDI gây ô nhiễm môi trường hoặc có dấu hiệu chuyển giá để trốn thuế, làm thất thu ngân sách nhà nước.
Những thách thức trên đặt ra yêu cầu cấp thiết phải cải cách mạnh mẽ để nâng cao chất lượng thu hút và hiệu quả sử dụng FDI trong thời gian tới, từ đó góp phần phát triển bền vững và tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia.
Các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thu hút FDI của Việt Nam
Khả năng thu hút vốn FDI của một quốc gia chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố đan xen, trong đó có cả điều kiện nội tại và bối cảnh cạnh tranh toàn cầu. Đối với Việt Nam, các yếu tố chính tác động đến hiệu quả thu hút FDI bao gồm:
Môi trường pháp lý và thể chế: Việt Nam đã có nhiều nỗ lực cải thiện khung pháp lý, ban hành Luật Đầu tư sửa đổi (2020) và các văn bản hướng dẫn thi hành nhằm đơn giản hóa thủ tục, nâng cao tính minh bạch. Tuy nhiên, trên thực tế, vẫn còn hiện tượng chồng chéo giữa các văn bản pháp luật, quy định thiếu rõ ràng hoặc chưa nhất quán, gây khó khăn cho doanh nghiệp FDI trong quá trình thực thi. Theo khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), có đến 43% doanh nghiệp FDI cho rằng "mức độ minh bạch trong thực thi pháp luật" là một rào cản lớn khi đầu tư vào Việt Nam.
Cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội: Việt Nam đã đầu tư đáng kể vào nâng cấp hạ tầng trong hai thập kỷ qua, đặc biệt là đường bộ, cảng biển và viễn thông. Tuy nhiên, so với các quốc gia ASEAN khác như Thái Lan hay Malaysia, chất lượng hạ tầng logistics và năng lượng của Việt Nam vẫn còn hạn chế. Báo cáo Logistics Việt Nam cho thấy, chi phí logistics chiếm khoảng 18% GDP, cao so với mức trung bình 10-12% của khu vực, làm giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp nội địa và khả năng thu hút FDI vào các lĩnh vực có giá trị gia tăng cao.
Chất lượng nguồn nhân lực: Dù sở hữu lực lượng lao động dồi dào, nhưng Việt Nam vẫn còn khoảng cách lớn về chất lượng tay nghề so với yêu cầu từ các tập đoàn đa quốc gia. Theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF), chỉ số năng lực cạnh tranh về kỹ năng (Skills) của Việt Nam đứng thứ 103/141 quốc gia. Trong khi các ngành như công nghiệp 4.0, công nghệ cao, bán dẫn, y sinh... đang là xu hướng đầu tư mới, thì Việt Nam lại thiếu hụt kỹ sư, chuyên gia trình độ cao đáp ứng.
Chính sách ưu đãi đâu tư: Chính phủ Việt Nam đang áp dụng nhiều ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn/giảm tiền thuê đất và hỗ trợ hành chính cho nhà đầu tư FDI. Tuy nhiên, nhiều chính sách vẫn chưa đủ cạnh tranh hoặc thiếu nhất quán trong thực thi giữa các địa phương. Bên cạnh đó, việc ưu đãi trải rộng, không có sự chọn lọc kỹ lưỡng cũng khiến nguồn lực bị phân tán, không tập trung được vào các ngành chiến lược.
Liên kết trong chuỗi cung ứng: Một trong những điểm yếu lớn của môi trường FDI tại Việt Nam là sự kết nối lỏng lẻo giữa doanh nghiệp FDI với khu vực tư nhân trong nước. Theo khảo sát của Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID), chỉ khoảng 21% doanh nghiệp FDI có hoạt động mua sắm nguyên liệu, linh kiện từ doanh nghiệp nội địa. Điều này cho thấy tiềm năng "học hỏi công nghệ" thông qua tiếp xúc và chuyển giao còn rất hạn chế. Sự thiếu vắng hệ sinh thái công nghiệp hỗ trợ cũng là rào cản trong việc nâng cao giá trị nội địa hóa và phát triển bền vững.
Yếu tô'địa chính trị và môi trường toàn câu: Việt Nam hiện đang hưởng lợi từ làn sóng dịch chuyển đầu tư hậu COVID-19. Tuy nhiên, điều này cũng đồng nghĩa với việc phải cạnh tranh gay gắt với các quốc gia có môi trường đầu tư tương đồng như: Ấn Độ, Indonesia, Philippines. Ngoài ra, yếu tố bền vững và trách nhiệm xã hội ngày càng trở thành tiêu chí quan trọng khi nhà đầu tư quyết định điểm đến, đòi hỏi Việt Nam phải nâng cao tiêu chuẩn lao động, bảo vệ môi trường và quản trị minh bạch hơn.
Khả năng thu hút FDI của Việt Nam phụ thuộc lớn vào việc cải thiện các yếu tố nền tảng như thể chế, hạ tầng, chất lượng nhân lực và liên kết chuỗi giá trị. Trong khi một số lợi thế truyền thống như chi phí lao động thấp dần mất đi, thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh dài hạn đòi hỏi sự vào cuộc mạnh mẽ và đồng bộ của Nhà nước, doanh nghiệp và toàn xã hội.
GIẢI PHÁP THU HÚT FDI HIỆU QUẢ THỜI GIAN TỚI
Hoàn thiện thể chế pháp lý và cải thiện môi trường đầu tư
Một hệ thống pháp luật minh bạch, ổn định và dễ dự đoán là yếu tố then chốt tạo niềm tin cho nhà đầu tư nước ngoài. Cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp và các văn bản hướng dẫn theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ pháp luật. Đồng thời, cần tăng cường thực thi pháp luật, đặc biệt trong các lĩnh vực như bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, giải quyết tranh chấp đầu tư và phòng chống tham nhũng. Theo Báo cáo Môi trường Kinh doanh của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam vẫn xếp sau nhiều nước ASEAN về chỉ số "thi hành hợp đồng" và "bảo vệ nhà đầu tư thiểu số". Do đó, cải cách tư pháp và nâng cao năng lực của các cơ quan giải quyết tranh chấp là giải pháp cấp thiết.
Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ
Cơ sở hạ tầng vẫn là điểm nghẽn lớn trong thu hút đầu tư, đặc biệt là hệ thống logistics, năng lượng tái tạo và hạ tầng số. Nhà nước cần tăng đầu tư công có trọng điểm vào các vùng kinh tế động lực, đồng thời huy động vốn tư nhân và vốn ODA để phát triển hạ tầng theo hình thức PPP (đối tác công tư).
Cụ thể, để phục vụ nhu cầu của các nhà đầu tư công nghệ cao, các khu công nghiệp cần được quy hoạch đồng bộ, tích hợp tiện ích số, điện mặt trời, xử lý nước thải và hạ tầng viễn thông tốc độ cao. Mô hình Khu công nghiệp VSIP hay Deep C tại Hải Phòng là ví dụ về thành công trong thu hút các dự án FDI chất lượng cao nhờ hạ tầng hiện đại và dịch vụ hỗ trợ tốt.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Nguồn nhân lực là yếu tố quyết định trong cạnh tranh thu hút FDI công nghệ cao. Việt Nam cần tăng cường đầu tư vào giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học, đặc biệt là các ngành kỹ thuật, công nghệ thông tin, tự động hóa, và quản trị doanh nghiệp theo chuẩn quốc tế.
Các chương trình đào tạo theo mô hình "liên kết 3 bên" (Nhà nước - Doanh nghiệp - Trường học) cần được mở rộng. Ví dụ, Samsung đã hợp tác với các trường đại học Việt Nam triển khai chương trình "Samsung Talent Program" nhằm đào tạo nhân lực công nghệ thông tin phục vụ sản xuất tại các tổ hợp lớn ở Bắc Ninh và Thái Nguyên.
Xây dựng chiến lược thu hút FDI có chọn lọc, ưu tiên lĩnh vực giá trị gia tăng cao
Chính phủ cần ban hành chiến lược thu hút FDI theo hướng ưu tiên các lĩnh vực như: công nghiệp bán dẫn, công nghệ sinh học, năng lượng tái tạo, sản xuất xanh và kinh tế số. Chính sách ưu đãi cần mang tính cạnh tranh, nhưng đi kèm điều kiện về tỷ lệ nội địa hóa, chuyển giao công nghệ và đào tạo nhân lực.
Thay vì trải thảm đỏ tràn lan, Việt Nam nên xây dựng danh mục "nhà đầu tư chiến lược" như Hàn Quốc đang áp dụng để tạo điều kiện đặc biệt cho những doanh nghiệp có tiềm lực lớn, gắn bó lâu dài và cam kết phát triển bền vững.
Tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp trong nước
Việc thiết lập mạng lưới liên kết chuỗi cung ứng nội địa sẽ góp phần nâng cao giá trị gia tăng trong nước và giảm sự phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu. Nhà nước cần có chính sách khuyến khích doanh nghiệp FDI sử dụng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp nội địa nâng cao năng lực tiếp nhận và tham gia chuỗi cung ứng.
Một số mô hình như Trung tâm hỗ trợ công nghiệp phụ trợ tại Bắc Ninh hay chương trình "LinkSME" do USAID tài trợ đã cho thấy hiệu quả bước đầu trong kết nối doanh nghiệp Việt với các tập đoàn đa quốc gia như Canon, Samsung, Panasonic.
KẾT LUẬN
Vốn FDI sẽ tiếp tục là một động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế và chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế Việt Nam. Trong ba thập kỷ qua, FDI đã góp phần thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mở rộng xuất khẩu và cải thiện cán cân thanh toán. Các dự án FDI không chỉ tạo ra nguồn vốn bổ sung mà còn giúp Việt Nam tiếp cận công nghệ tiên tiến, mô hình quản trị hiện đại và mạng lưới thị trường quốc tế. Đáng chú ý, FDI đã góp phần quan trọng vào quá trình chuyển đổi mô hình tăng trưởng của Việt Nam từ phát triển dựa vào yếu tố đầu vào sang phát triển dựa vào năng suất và đổi mới sáng tạo.
Tuy nhiên, mặt trái không thể bỏ qua của tình trạng hút hút FDI cần nhắc tới đó là: tình trạng chuyển giá, ô nhiễm môi trường và sự lệ thuộc vào khu vực FDI trong một số lĩnh vực chủ chốt. Hiệu ứng lan tỏa công nghệ và năng lực quản trị từ doanh nghiệp FDI sang doanh nghiệp nội địa còn hạn chế, đòi hỏi phải có cơ chế hỗ trợ mạnh mẽ hơn để thúc đẩy kết nối chuỗi giá trị và phát triển doanh nghiệp trong nước.
Trong bối cảnh cạnh tranh thu hút FDI ngày càng gay gắt và xu hướng dịch chuyển dòng vốn đầu tư toàn cầu sau đại dịch COVID-19, Việt Nam cần nâng cao chất lượng và hiệu quả thu hút FDI thông qua một chiến lược có chọn lọc, hướng đến các ngành công nghệ cao, công nghệ sạch và kinh tế số. Cải cách thể chế, nâng cấp cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và xây dựng hệ sinh thái đổi mới sáng tạo là những trụ cột then chốt. Đồng thời, cần tăng cường giám sát, đánh giá hiệu quả FDI và gắn kết chặt chẽ hơn với các mục tiêu phát triển bền vững quốc gia. Chỉ khi thực hiện đồng bộ và hiệu quả các giải pháp trên, Việt Nam mới có thể tận dụng tối đa lợi ích từ dòng vốn FDI, đảm bảo cho sự phát triển bền vững, tự chủ và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu trong thời gian tới.
Tài liệu tham khảo:
1. Tổng cục Thống kê (2024). Niên giám thống kê Việt Nam 2023, Nxb Thống kê, Hà Nội.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2024). Báo cáo tình hình thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài năm 2024, Cổng thông tin điện tử.
3. UNCTAD (2023). World Investment Report 2023: Investing in Sustainable Energy for All, United Nations.
4. Nguyễn Thị Minh Phương (2023). Giải pháp nâng cao chất lượng thu hút FDI tại Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số307.
5. OECD (2023). FDI Qualities Policy Toolkit: Strengthening the Contribution of FDI to Sustainable Development, OECD Publishing
(Theo Tạp chí Kinh tế - Tài chính, kỳ 2 tháng 6/2025)
Tin tức khác
TP. Hồ Chí Minh: Xử phạt hành chính 36 doanh nghiệp chậm đóng bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm - Ngân hàng
MB triển khai thẻ MB Visa Hi BIZ cho doanh nghiệp trong nước
Bảo hiểm - Ngân hàng
Chính sách tài khóa tạo động lực tăng trưởng cho nền kinh tế
Nghiên cứu - Trao đổi
Vietcombank giữ vững vị thế Ngân hàng có môi trường làm việc tốt nhất Việt Nam
Bảo hiểm - Ngân hàng
TP. Hồ Chí Minh: Gần 20.000 doanh nghiệp chậm đóng bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm - Ngân hàng
VPBank thanh lý tài sản đảm bảo, giá thấp hơn thị trường 10-20%
Bảo hiểm - Ngân hàng
Hạ tầng VietQR được mở rộng cho thanh toán nội địa và xuyên biên giới
Bảo hiểm - Ngân hàng
MultiMedia
INFOGRAPHIC: 6 nhóm hàng xuất khẩu "chục tỷ đô" của doanh nghiệp FDI
VIDEO: Bộ Tài chính đề xuất nâng mức doanh thu miễn thuế lên 500 triệu đồng/năm
INFOGRAPHIC: Chương trình 1719 tại tỉnh Lào Cai: 5 năm bứt phá, chuyển biến toàn diện
INFOGRAPHIC: Chương trình Mục tiêu quốc gia 1719 giai đoạn II (2026–2030): Trao quyền cho địa phương, tạo bứt phá từ vùng lõi nghèo
VIDEO: Bộ Tài chính đề xuất thu thuế trên thu nhập, chính thức xóa bỏ thuế khoán
Đề xuất đầu tư cao tốc Vinh - Thanh Thủy hơn 25.300 tỷ đồng
Thời sự
Quản lý tài chính - ngân sách hiệu quả, hỗ trợ phục hồi và phát triển kinh tế
Thời sự
Bỏ độc quyền cho vay lại, rút gọn thủ tục ODA trong dự thảo Luật Quản lý nợ công sửa đổi
Hoạt động của Lãnh đạo Bộ Tài chính
Quyết liệt các giải pháp để đạt tăng trưởng trên 8%
Tài chính
Cần khoảng một tháng để khắc phục sự cố điện ở Phú Quốc
Thời sự
Khánh Hòa: Tập trung cao độ xây và sửa chữa nhà cho người dân vùng lũ
Xã hội
Đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của người có đất bị thu hồi
Thời sự
Tạp chí Kinh tế - Tài chính chính thức ra mắt và vận hành nền tảng CMS hội tụ và giao diện mới
Tài chính
Đề xuất cơ chế đột phá giúp TP. Hồ Chí Minh và Đà Nẵng bứt phá sau mở rộng địa giới
Tài chính
Kinh tế - xã hội TP. Hà Nội tháng 11 tiếp tục chuyển biến tích cực
Tài chính
Bộ Tài chính tổ chức khóa đào tạo Bảo mật Đám mây cho tổ chức
Chuyển đổi số
Bộ Tài chính lấy ý kiến cho Dự thảo thông tư về giám sát thị trường chứng khoán
Tài chính
Sở Tài chính Cà Mau đề xuất giao 60 cơ sở nhà, đất dôi dư để bán đấu giá, đầu tư
Tài chính
Hoàn thiện Nghị định xử phạt lĩnh vực giá: Làm rõ thẩm quyền, tránh chồng chéo
Pháp luật
Cần áp dụng chính sách đặc thù tháo gỡ dự án tồn đọng trên toàn quốc, khơi thông nguồn lực phát triển
Tài chính










