FDI vào Việt Nam: Kỳ vọng đổi mới trong năm 2010!
TCTC Online - Sau 3 năm gia nhập WTO, có thể khẳng định FDI là một trong những điểm sáng nhất của bức tranh kinh tế Việt Nam.

Trong quá trình chuẩn bị gia nhập WTO, Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc đòi hỏi của tổ chức này như minh bạch hóa chính sách, hoàn thiện thể chế và cải cách hành chính... từ đó đã tạo lập được môi trường kinh doanh có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư quốc tế. Tuy nhiên, bất cập vẫn tồn tại ngay trong thực hiện thu hút và giải ngân FDI khiến cho tiềm năng, cơ hội mà nguồn vốn này có thể mang lại chưa được phát huy.
Thực trạng...
Nếu như sau giai đoạn 1999-2004, FDI vào Việt Nam giảm sút nghiêm trọng, thì làn sóng thứ 2 được bắt đầu từ năm 2005 và bùng phát vào các năm 2007-2008 với mức tăng trưởng khá cao. Năm 2006 vốn thực hiện đạt 4,1 tỷ USD, vốn đăng ký là 12 tỷ USD; năm 2007 các con số tương ứng là 8,03 tỷ USD và 21,34 tỷ USD; năm 2008 là 11,6 tỷ USD và 64 tỷ USD; năm 2009 vốn thực hiện khoảng gần 10 tỷ USD, cam kết đạt trên 21 tỷ USD...
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới chịu nhiều tác động xấu của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tổng số vốn FDI năm 2009 chảy vào các nền kinh tế mới nổi khoảng 165 tỷ USD, chỉ bằng 1/3 của năm 2008 (466 tỷ USD) thì kết quả trên là một tín hiệu khá lạc quan cho triển vọng những năm tiếp theo. So sánh với năm 2008, FDI cam kết mới trong năm 2009 giảm khá mạnh nhưng cũng không nên coi đó là một tín hiệu xấu, vì nó mới chỉ là thể hiện cam kết của các nhà đầu tư quốc tế biểu hiện xu thế phát triển FDI vào một nước, chứ chưa phải là hoạt động thực tế.
Chỉ tiêu quan trọng nhất là vốn thực hiện thì trong năm 2009, số vốn này chỉ giảm khoảng trên 10% so với năm 2008. Đây là kết quả đáng khích lệ trong điều kiện vốn FDI quốc tế giảm nhiều và FDI của nhiều nước trong khu vực giảm 20-30%. Thực trạng này phản ánh độ tin cậy khá cao của các nhà đầu tư nước ngoài đối với Việt Nam, và với triển vọng tình hình kinh tế - xã hội năm 2010 được dự báo khá lạc quan có thể hy vọng FDI sẽ lại khởi sắc mạnh mẽ tại Việt Nam.
Mặc dù Việt Nam đã thu hút được những nguồn vốn khổng lồ từ các nhà đầu tư nước ngoài, nhưng khách quan, nhìn lại sau 3 hai năm gia nhập WTO, thì thấy vẫn còn những tồn tại cần phải giải quyết.
Thứ nhất, gia nhập WTO cơ hội mở ra cho Việt Nam nhưng khả năng tận dụng cơ hội của ta còn rất hạn chế. Tỷ lệ vốn thực hiện đạt thấp (năm cao nhất - năm 2007 cũng chỉ đạt 38%, năm 2008 chỉ đạt 17% so với vốn đăng ký) do khả năng tiếp nhận của chúng ta còn kém. Bên cạnh đó, cơ cấu FDI cũng không hợp lý. FDI chủ yếu được đầu tư vào công nghiệp lắp ráp nhằm tận dụng lao động rẻ, giá trị gia tăng thấp, trong khi đầu tư vào công nghiệp chế tạo và chế biến giảm liên tục từ năm 2005 đến năm 2008 (70,4% năm 2005 xuống 68,9% năm 2006, 51% năm 2007 và còn 36% năm 2008).
Đầu tư vào khai thác tài nguyên và vào bất động sản (cũng là một dạng khai thác tài nguyên đất đai) tăng lên. Đầu tư vào khai thác mỏ từ 0,8% năm 2005 lên 1,2% năm 2006 và lên tới 18,5% năm 2008. Đầu tư vào khách sạn, nhà hàng, khu nghỉ dưỡng từ 0,9% năm 2005 tăng đến 15,1% năm 2008. Đó là chưa kể đến hiệu ứng sân golf làm mất một diện tích không ít đất đai (trong đó có đất nông nghiệp) và có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. Có hai nguyên nhân quan trọng hạn chế đầu tư vào công nghiệp chế biến và công nghệ cao, đó là do chất lượng nguồn nhân lực thấp và công nghiệp hỗ trợ không phát triển. Cơ cấu đầu tư như vậy không thể đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Thứ hai là yếu kém về môi trường đầu tư, trước hết là về cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng về giao thông. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng giao thông chưa theo kịp sự phát triển của kinh tế và dòng đầu tư của nước ngoài. Về môi trường pháp lý, hệ thống toà án và thực thi luật pháp còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân do các thủ tục còn rườm rà và chi phí cao, thiếu tính minh bạch. Đặc biệt là các công ty luật, đa số hoạt động kém hiệu quả và chi phí lớn đã làm giảm lòng tin của nhà đầu tư.
Một lợi thế của Việt Nam là nguồn nhân lực, nhưng nguồn nhân lực có trình độ quản lý và tay nghề cao còn rất thiếu. Theo thống kê chỉ có gần 30% lực lượng lao động là đã qua đào tạo, nhưng chất lượng cũng chưa cao, chưa đồng đều và sử dụng chưa hiệu quả. Ngoài ra, dịch vụ hành chính, hệ thống thuế, hải quan... cũng còn nhiều bất cập và chưa đồng bộ.
Kỳ vọng đổi mới và những vấn đề cần lưu ý
Năm 2010 là năm cuối của thập niên đầu thiên niên kỷ mới, năm kết thúc chiến lược kinh tế - xã hội lần thứ hai kể từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới của Việt Nam; Đồng thời, năm 2010 cũng là năm chuẩn bị Đại hội XI của Đảng và soạn thảo chiến lược kinh tế xã hội 2011-2020 với mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam căn bản trở thành nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại.
Cũng như nhiều nước trên thế giới, khủng hoảng kinh tế đã tác động tiêu cực đến kinh tế xã hội Việt Nam và cũng làm bộc lộ nhiều nhược điểm cố hữu đã tồn tại trong thời hưng thịnh. Do vậy, sau khủng hoảng là lúc phải nhìn lại lý thuyết phát triển và chính sách kinh tế của đất nước, cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân hướng đến những mục tiêu cơ bản hơn và hiệu quả hơn.
FDI của Việt Nam năm 2010 và những năm tiếp theo phụ thuộc vào việc giải quyết có hiệu quả những vấn đề kinh tế - xã hội sau khủng hoảng. Với những kinh nghiệm giải quyết hậu quả của hai cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra trong vòng hơn 10 năm trở lại đây, đất nước đang kỳ vọng vào sự điều hành của Chính phủ năm 2010 sẽ có nhiều bước phát triển đầy khởi sắc.
Trên cơ sở đó, dự báo FDI của nước ra năm 2010 sẽ được phục hồi và có thể tăng trưởng cao hơn năm 2008 về vốn thực hiện và chất lượng các dự án cũng được nâng cao. Dự báo lạc quan này được dựa trên cơ sở:
Một là, triển vọng kinh tế tăng trưởng 6,5%, chính trị - xã hội ổn định và một thị trường đầy tiềm năng có sức hấp dẫn các nhà đầu tư quốc tế;
Hai là, chênh lệch giữa vốn cam kết và vốn thực hiện sẽ được rút ngắn, sau khủng hoảng được coi là thời kỳ các nhà đầu tư sẽ đẩy mạnh thực hiện các dự án đã cam kết đồng thời các doanh nghiệp FDI sẽ mở rộng hoạt động với nhiều dự án mới;
Ba là, việc thực hiện cam kết quốc tế trong khuôn khổ WTO, AFTA và hướng tới cộng đồng ASEAN vào năm 2015, quan hệ song phương với một số nước mà Việt Nam đã nâng lên tầm chiến lược tạo ra thế và lực mới của nước ta trong khu vực và trên thế giới.
Vấn đề chủ yếu của Việt Nam trên con đường phát triển, trong đó có thu hút FDI là vượt qua chính mình khi đã có những tiền đề vật chất và tình hình chính trị xã hội tốt hơn để tiến nhanh hơn, bền vững hơn, có hiệu quả hơn. Để thực hiện được các mục tiêu đã được đề ra, bốn vấn đề chủ yếu có quan hệ với FDI từ khi Việt Nam gia nhập WTO cần được lưu ý là:
Thứ nhất: Thể chế kinh tế cần được hoàn chỉnh và đồng bộ. Năm 2009 là năm thứ 3 Việt Nam gia nhập WTO, đồng thời là năm nước ta tiến gần đến thời điểm về cơ bản xóa bỏ hàng rào thuế quan để thực hiện cam kết trong khuôn khổ AFTA và còn tồn tại rất nhiều vấn đề cần giải quyết. Những tồn tại này chính là trở ngại khiến cho dòng vốn từ nước ngoài vào Việt Nam bị chậm lại. Trở ngại lớn đầu tiên là quan điểm, nhận thức giữa các cơ quan hoạch định chính sách đã làm nảy sinh tình trạng thiếu thống nhất trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Sự bất nhất trong các văn bản pháp luật đã đẩy không ít nhà đầu tư, doanh nghiệp đến tình trạng dở khóc dở cười, gây tốn kém về thời gian, tiền bạc và tạo tâm lý bất tín trong môi trường kinh doanh. Chủ trương phân cấp cho chính quyền tỉnh, thành phố cấp phép các dự án FDI đã tạo ra sự năng động sáng tạo và nâng cao quyền tự chủ của địa phương nhưng cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề, trong đó có tính cục bộ địa phương đã phá vỡ tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân.
Thứ hai: Cơ sở hạ tầng kỹ thuật cần được hiện đại hóa nhanh để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và đời sống xã hội. Cũng vẫn là chuyện cũ lặp lại: đường bộ, đường sắt, cảng biển... chưa được quan tâm đầu tư phát triển mạnh mẽ theo đòi hỏi của phát triển kinh tế. Nhìn lại 15 năm qua, hệ thống giao thông nước ta dường như chuyển động rất chậm - chưa có nổi được một con đường cao tốc đúng nghĩa, tốc độ của đường sắt vẫn vào loại ì ạch nhất thế giới. Hàng hóa, du lịch, lưu lượng giao thông tăng mạnh và nhanh so với tiến độ cải tiến chậm trễ của hạ tầng giao thông đã tạo ra một "nút thắt" cho nền kinh tế.
Thứ ba: Nguồn nhân lực dồi dào, giá rẻ lâu nay cần được chuyển sang nguồn nhân lực có trình độ cao hơn, chuyên môn hóa hơn. Việc lôi kéo những tập đoàn kinh tế lớn, công nghệ cao vào nước ta là một thành công của FDI song cũng đang đặt ra vấn đề hết sức nghiêm túc cho đất nước, đó là phải thực sự chuyển hướng mạnh mẽ trong hệ thống giáo dục đại học, chuyên nghiệp, dạy nghề để đáp ứng những đòi hỏi của nhà tuyển dụng. Sự trì trệ của ngành giáo dục là nguyên nhân chính làm nảy sinh nhược điểm mới về nguồn nhân lực của đẩt nước. Điều này nếu không sớm được khắc phục sẽ dẫn đến nguy cơ lăn vào vết xe đổ của một số nước đã đi trước khi vượt qua ngưỡng của các nước có thu nhập thấp trên thế giới mà tăng trưởng kinh tế vẫn dựa vào thâm dụng vốn và nguồn lao động rẻ mạt.
Thứ tư: Xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Chủ trương cải cách nền hành chính quốc gia được coi như một nhiệm vụ quan trọng từ nhiều năm nay nhưng hiệu quả mang lại còn xa so với kỳ vọng. Tính nghiêm trọng của vấn đề có liên quan đến tương lai của quá trình phát triển đất nước, bởi vì đã có những tính toán cả về khoản chi phí khổng lồ bị đánh mất, cũng như sự sụt giảm vài ba điểm tăng trưởng kinh tế do bộ máy công quyền gây ra.
Là thành viên của WTO, đã đến lúc người Việt Nam phải vượt qua rào cản về tư duy của một nước lạc hậu, phụ thuộc vào viện trợ tài chính và công nghệ nước ngoài để có tư duy của một nước có vị thế quan trọng ở Đông Nam Á và có vị thế ngày càng cao ở châu Á và thế giới, với tư cách là thành viên WTO tham gia bình đẳng vào phân công và hợp tác quốc tế trong thế giới toàn cầu hóa.
Trước hết là xây dựng thể chế toàn cầu: Chuẩn bị tốt để chủ động đề ra chủ trương, lựa chọn cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất tham gia các vòng đàm phán thương mại nhằm bảo vệ lợi ích của đất nước; Tiếp đến là tìm phương thức thích hợp với từng đối tác trong đàm phán song phương để họ sớm công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Điều này sẽ có lợi cho Việt Nam, đặc biệt là với các doanh nghiệp trong trường hợp phải đối đầu với những vụ kiện bán phá giá.
Cuối cùng là, các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp cần phải chủ động hơn trong việc theo dõi, kịp thời phát hiện những vi phạm từ các đối tác để tận dụng tư cách thành viên WTO đòi hỏi họ phải thực hiện nghiêm chỉnh các cam kết đối với Việt Nam. Thực hiện tốt các yếu tố này sẽ góp phần tạo ra một môi trường kinh doanh bình đẳng, thông thoáng, các nhà đầu tư nước ngoài sẽ yên tâm khi lựa chọn Việt Nam là điểm đến đầu tư.