Đơn giản hóa thủ tục đầu tư ra nước ngoài, rộng mở cơ hội cho doanh nghiệp

Trần Huyền

Dự thảo Luật Đầu tư (thay thế) được Bộ Tài chính xây dựng với nhiều điểm đổi mới quan trọng, trong đó nổi bật là việc đơn giản hóa thủ tục đầu tư ra nước ngoài. Quyết định này nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho doanh nghiệp Việt Nam mở rộng hoạt động ra thị trường quốc tế, đồng thời đảm bảo kiểm soát hiệu quả dòng vốn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.

Tại Dự thảo Luật Đầu tư (thay thế), Bộ Tài chính để xuất đơn giản hóa thủ tục đầu tư ra nước ngoài. Ảnh minh họa. Nguồn: internet
Tại Dự thảo Luật Đầu tư (thay thế), Bộ Tài chính để xuất đơn giản hóa thủ tục đầu tư ra nước ngoài. Ảnh minh họa. Nguồn: internet

Phát sinh bất cập trong thực tiễn

Theo Bộ Tài chính, tính đến hết tháng 6/2025, Việt Nam đã có 1.916 dự án đầu tư ra nước ngoài còn hiệu lực với tổng vốn hơn 23 tỷ USD. Đáng chú ý, phần lớn dự án có quy mô vốn dưới 20 tỷ đồng chiếm tới 67,4% số lượng nhưng chỉ chiếm 1,7% tổng vốn đầu tư; trong khi đó, các dự án có vốn trên 20 tỷ đồng chỉ chiếm khoảng 28% số dự án nhưng lại chiếm tới 98,3% tổng vốn đầu tư ra nước ngoài.

Những dự án này đều thuộc diện chấp thuận chủ trương của Thủ tướng Chính phủ hoặc cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài. Ngoài ra, đến nay chưa ghi nhận có dự án đầu tư ra nước ngoài thuộc thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của Quốc hội.

Bên cạnh những kết quả tích cực, các thủ tục đầu tư ra nước ngoài đã phát sinh một số bất cập trong quá trình quản lý của cơ quan nhà nước cũng như thực hiện của nhà đầu tư.

Hiện nay, các cơ quan quản lý Việt Nam phê duyệt chi tiết các nội dung về hình thức, quy mô, địa điểm, vốn và tiến độ thực hiện dự án. Điều này được đánh giá là chưa hợp lý và có thể hạn chế quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, chưa có sự phân định rõ ràng giữa phạm vi quản lý của pháp luật Việt Nam và pháp luật nước tiếp nhận đầu tư.

Về bản chất, mục tiêu của nhà đầu tư là chuyển tiền ra nước ngoài để đầu tư kinh doanh. Tuy nhiên, cơ chế quản lý đầu tư ra nước ngoài như hiện tại không còn phù hợp, làm cản trở, hạn chế cơ hội đầu tư ở nước ngoài của nhà đầu tư; đồng thời khó kiểm soát trách nhiệm sau khi vốn đã chuyển đi. Do đó, việc cắt giảm thủ tục không phù hợp sẽ góp phần thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam.

Thông thoáng nhưng vẫn đảm bảo cơ chế kiểm soát

Thực tế trên thế giới cho thấy, nhiều quốc gia chỉ kiểm soát dòng tiền chuyển ra nước ngoài mà không quản lý toàn bộ hoạt động đầu tư ở nước ngoài, vì các hoạt động này phải tuân thủ luật pháp của nước sở tại. Hiện nay chỉ còn Việt Nam, Lào và Indonesia duy trì cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài; Trung Quốc cũng đã nới lỏng và chỉ tập trung quản lý các dự án lớn. Các nước khác đã chuyển sang cơ chế nhà đầu tư kê khai, đăng ký vốn đầu tư qua hệ thống ngân hàng.

Mặc dù vậy, có ý kiến lo ngại nếu bãi bỏ ngay các thủ tục đầu tư ra nước ngoài sẽ thiếu kiểm soát, dễ xảy ra hiện tượng chuyển vốn bất hợp pháp, gây ảnh hưởng tiêu cực đến ổn định kinh tế vĩ mô, thị trường trong nước và tiềm năng tăng trưởng kinh tế.

Trước thực trạng này, tại Kết luận số 194-KL/TW ngày 20/9/2025, Bộ Chính trị đã chỉ đạo đơn giản hóa thủ tục đầu tư ra nước ngoài. Trên cơ sở đó, tại dự thảo Luật Đầu tư (thay thế), Bộ Tài chính đề xuất bãi bỏ thủ tục chấp thuận chủ trương đầu tư ra nước ngoài thuộc thẩm quyền của Quốc hội và Thủ tướng Chính phủ.

Dự thảo Luật cũng thu hẹp diện dự án phải thực hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư ra nước ngoài theo hướng chỉ áp dụng đối với dự án có vốn đầu tư từ 20 tỷ đồng (tương đương khoảng 760.000 USD) trở lên hoặc dự án đầu tư có lĩnh vực thuộc ngành, nghề đầu tư ra nước ngoài có điều kiện. Đối với các dự án có quy mô dưới 20 tỷ đồng, chỉ cần thực hiện việc đăng ký giao dịch ngoại hối với Ngân hàng Nhà nước để chuyển tiền ra nước ngoài.

Việc đơn giản hóa thủ tục này được kỳ vọng sẽ mở rộng cơ hội đầu tư ra nước ngoài cho doanh nghiệp Việt Nam, tạo sự thông thoáng và thuận lợi nhưng vẫn đảm bảo cơ chế kiểm soát cần thiết đối với dòng vốn chuyển ra nước ngoài, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển kinh tế bền vững trong bối cảnh hội nhập toàn cầu.