Loạt bài: Kiểm soát lạm phát trước những “biến số” cuối năm

Bài 5: Điều hành giá linh hoạt, phối hợp chính sách nhịp nhàng kiểm soát lạm phát

Hương Dịu

Trao đổi với phóng viên Tạp chí Kinh tế - Tài chính, chuyên gia kinh tế PGS.TS. Ngô Trí Long cho rằng, cuối năm luôn là giai đoạn nhạy cảm trong kiểm soát giá, khi nhu cầu tiêu dùng tăng mạnh và nhiều yếu tố chi phí đẩy có thể tác động đến mặt bằng giá. Việc “về đích” mục tiêu kiểm soát lạm phát cần sự điều hành chủ động, linh hoạt và phối hợp chặt chẽ giữa chính sách tài khóa, tiền tệ và quản lý giá, trong đó Bộ Tài chính tiếp tục giữ vai trò “nhạc trưởng” trong ổn định thị trường và củng cố niềm tin kinh tế.

Bài 5: Điều hành giá linh hoạt, phối hợp chính sách nhịp nhàng kiểm soát lạm phát - Ảnh 1
Chuyên gia kinh tế PGS.TS. Ngô Trí Long.

Phóng viên: Ông đánh giá thế nào về tình hình lạm phát năm 2025 và những yếu tố tác động chính trong giai đoạn này?

PGS. TS. Ngô Trí Long: Cuối năm luôn là giai đoạn “cao điểm” của điều hành giá khi nhu cầu tiêu dùng tăng mạnh dịp Tết, trong khi nhiều mặt hàng, dịch vụ do Nhà nước quản lý thường được xem xét điều chỉnh vào cuối năm.

Bình quân 10 tháng năm 2025, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 3,27% trong khi lạm phát cơ bản chỉ tăng 3,20%. Đây là mức hợp lý, thể hiện rằng áp lực chi phí đẩy vẫn được kiểm soát, kỳ vọng lạm phát của người dân và doanh nghiệp được giữ ổn định.

Tuy nhiên, giai đoạn cuối năm luôn tiềm ẩn rủi ro, do ảnh hưởng từ yếu tố mùa vụ, khi giá thực phẩm, dịch vụ vận tải, y tế và giáo dục đều tăng do nhu cầu cao. Cùng với đó là biến động từ thị trường quốc tế, đặc biệt là giá dầu và tỷ giá USD, có thể khiến chi phí nhập khẩu tăng. Ngoài ra, diễn biến trên thị trường vàng cũng là những yếu tố cần theo dõi sát.

Mục tiêu lạm phát bình quân 4,5 - 5% là hoàn toàn có thể đạt được, nhưng chỉ khi các chính sách tài khóa, tiền tệ và quản lý giá phối hợp thật nhịp nhàng, nhất quán và minh bạch.

Phóng viên: Ông đánh giá thế nào về những điểm sáng trong điều hành giá thời gian qua, đặc biệt là vai trò của Bộ Tài chính trong việc ổn định mặt bằng giá?

PGS.TS. Ngô Trí Long: Điểm sáng dễ nhận thấy nhất là công tác điều hành giá đã ngày càng chủ động, bài bản và linh hoạt hơn. Bộ Tài chính – với vai trò là cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo điều hành giá – đã bám sát diễn biến thị trường, chủ động phối hợp với các bộ, ngành để kịp thời công bố, điều chỉnh giá hàng hóa, dịch vụ Nhà nước quản lý.

Một điểm rất đáng chú ý là việc công khai sớm lộ trình điều chỉnh giá đối với các mặt hàng nhạy cảm như y tế, giáo dục, điện, xăng dầu. Việc chia nhỏ tác động, không dồn đợt điều chỉnh vào cuối năm đã giúp hạn chế cú sốc tâm lý cho người dân.

Đối với nhóm hàng thiết yếu, Bộ Tài chính đã đề nghị các cơ quan quản lý, địa phương tăng cường dự báo cung – cầu theo tuần, chuẩn bị nguồn hàng phục vụ Tết, tổ chức nhiều điểm bán bình ổn. Cùng với đó, cơ chế sử dụng quỹ bình ổn giá xăng dầu linh hoạt đã giúp giảm biên độ biến động, hạn chế tác động lan tỏa của giá thế giới vào thị trường trong nước.

Những chương trình kết nối cung - cầu, bình ổn giá cần đẩy mạnh triển khai trong những tháng cuối năm. Ảnh minh hoạ: H.D
Những chương trình kết nối cung - cầu, bình ổn giá cần đẩy mạnh triển khai trong những tháng cuối năm. Ảnh minh hoạ: H.D

Phóng viên: Một yếu tố đang được quan tâm là tác động của việc tăng lương tối thiểu vùng thêm 7,2% từ năm 2026 đến kiểm soát lạm phát. Theo ông, cần có giải pháp gì để giảm tác động tiêu cực?

PGS.TS. Ngô Trí Long: Việc tăng lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động là chủ trương đúng đắn, thể hiện nỗ lực của Chính phủ trong việc cải thiện đời sống người lao động. Tuy nhiên, chính sách này có thể tạo áp lực lên lạm phát theo độ trễ, nhất là khi cầu tiêu dùng tăng nhanh hơn năng suất lao động.

Do đó, cần có lộ trình tăng hợp lý, gắn với tăng năng suất, đồng thời phối hợp chặt chẽ chính sách tài khóa – tiền tệ – giá cả để tránh vòng xoáy “giá – lương”. Việc điều hành giá các mặt hàng thiết yếu đúng thời điểm và truyền thông minh bạch cũng rất quan trọng nhằm ổn định kỳ vọng thị trường, giúp người lao động thực sự được hưởng lợi từ thu nhập tăng mà không bị “trượt giá”.

Phóng viên: Trong bối cảnh nhiều biến số trong và ngoài nước đan xen, ông dự báo thế nào về khả năng kiểm soát lạm phát năm 2025 và định hướng cho năm 2026?

PGS. TS. Ngô Trí Long: Tôi cho rằng có thể chia ra hai kịch bản. Ở kịch bản cơ sở, nếu giá năng lượng thế giới đi ngang, tỷ giá được điều hành ổn định, lịch điều chỉnh giá công khai sớm và thị trường vàng vận hành êm sau cải cách, thì lạm phát bình quân cả năm hoàn toàn có thể giữ trong vùng mục tiêu 4,5–5%. Đây là kịch bản có xác suất cao nhất.

Còn kịch bản rủi ro là khi giá dầu tăng kéo dài, đồng USD mạnh lên, hoặc thị trường vàng có biến động cục bộ. Khi đó, cần sẵn sàng các biện pháp điều hành nhanh – bơm hút thanh khoản kịp thời, giữ lãi suất qua đêm ổn định, can thiệp tỷ giá theo biên độ định sẵn và kích hoạt quỹ bình ổn cho một số mặt hàng nhạy cảm.

Điều quan trọng nhất là sự phối hợp chính sách phải đúng nhịp, đúng thời điểm và minh bạch. Bộ Tài chính cần tiếp tục vai trò “nhạc trưởng” trong quản lý giá, phối hợp cùng Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ngành để vừa ổn định vĩ mô, vừa bảo đảm tăng trưởng.

Trong đó, chính sách tiền tệ cần linh hoạt, giữ mặt bằng lãi suất phù hợp, không siết quá mức, ưu tiên ổn định thanh khoản ngắn hạn để giảm áp lực mùa vụ. Cũng như chủ động điều tiết tỷ giá bằng kết hợp nghiệp vụ thị trường mở để định hướng thị trường. Các ngân hàng cần tập trung tín dụng vào chuỗi cung ứng Tết (thực phẩm, vận tải, bán lẻ) với hạn mức ưu tiên, kèm điều kiện minh bạch giá bán.

Kiểm soát lạm phát giải đoạn cuối năm có thể coi là phép thử năng lực phối hợp chính sách. Nếu thực thi đúng nhịp và minh bạch, Việt Nam có thể tận dụng thuận lợi các cơ hội để vượt qua rủi ro mùa vụ, biến động quốc tế và tâm lý kỳ vọng.

Mục tiêu không phải giữ giá tuyệt đối, mà là giữ biên độ biến động trong tầm kiểm soát và củng cố niềm tin thị trường. Khi kỳ vọng được neo vững, nền kinh tế sẽ có đủ không gian để “về đích” bền vững, đúng như mục tiêu Quốc hội đã đặt ra cho năm 2025 và giai đoạn 2026–2030.

Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn những chia sẻ của ông!

 

Theo Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng 10 và 10 tháng năm 2025 của Bộ Tài chính, nhìn chung, lạm phát tháng 10 vẫn trong tầm kiểm soát với mức dưới 4% nhưng chịu tác động từ 3 nguồn áp lực khác nhau. Đó là: cú sốc cung ngắn hạn từ thiên tai, chi phí đầu vào và chính sách giá dài hạn, cùng với biến động thị trường tài sản toàn cầu. Yếu tố giảm giá từ năng lượng đang giúp cân bằng nhưng sự hỗ trợ này có thể không bền vững nếu giá dầu thế giới phục hồi trong thời gian tới.

Về dự báo giá cả và công tác điều hành giá các tháng còn lại của năm 2025, theo Bộ Tài chính, có nhiều yếu tố gây áp lực tăng giá bao gồm chính sách thuế quan, biến động tỷ giá, giá năng lượng, điều chỉnh giá dịch vụ công, hoạt động kinh tế, dịch bệnh và biến đổi khí hậu.

Tuy nhiên, cũng có một số yếu tố làm giảm áp lực lên mặt bằng giá như nguồn cung lương thực dồi dào, chính sách miễn học phí, nhu cầu tiêu dùng còn yếu, và các chính sách hỗ trợ giảm thuế.