Loạt bài: Nguồn lực tài chính cho Việt Nam vào “đường đua” công nghệ cao
Bài 3: Tín dụng cho đổi mới sáng tạo và công nghệ cao còn “mỏng”
Đại diện lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã ước tính, năm 2025 tín dụng có thể tăng hơn 20% - mức cao nhất trong nhiều năm. Tuy nhiên, lượng tín dụng chảy vào lĩnh vực công nghệ cao còn rất khiêm tốn so với tổng dư nợ toàn nền kinh tế.
Bài 1: Tầm nhìn Việt Nam 2045 và áp lực đổi mới
Bài 2: Cần cơ chế tài chính để thu hút và bồi dưỡng nhân tài
Quy mô tín dụng chưa đến 0,5% tổng dư nợ
Theo báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2025, dự kiến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2026 của Bộ Tài chính, tính đến 18/8/2025, dư nợ tín dụng tăng 10,65% so với cuối năm 2024, tăng 19,86% so với cùng kỳ năm trước. Trong các chương trình tín dụng hỗ trợ sản xuất, tiêu dùng có Chương trình tín dụng 500.000 tỷ đồng cho doanh nghiệp đầu tư hạ tầng, công nghệ số.
Báo cáo của Bộ Tài chính cũng nhận xét, mặt bằng lãi suất cho vay có xu hướng giảm, hướng dòng vốn vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh, lĩnh vực ưu tiên và các động lực tăng trưởng kinh tế theo chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Trong thông báo về diễn biến lãi suất tháng 8/2025 của NHNN, lãi suất cho vay bình quân của ngân hàng thương mại trong nước đối với các khoản cho vay mới và cũ còn dư nợ ở mức 6,5 - 8,8%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn bình quân bằng VND đối với lĩnh vực ưu tiên khoảng 3,9%/năm thấp hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa theo quy định của NHNN (4%/năm).
Mặc dù có nhiều tín hiệu tích cực như trên về tín dụng nói chung, nhưng tín dụng cho lĩnh vực công nghệ cao vẫn chưa thực sự hợp lý.
Theo thông tin mới nhất từ NHNN, tính đến cuối tháng 5/2025, tín dụng cho doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao ghi nhận đà tăng mạnh 17,59% so với cuối năm 2024, trong khi cùng kỳ năm trước tăng 18,16%, tính chung cả năm 2024 tăng hơn 34% so với cuối năm 2023. Mức tăng trưởng này cho thấy các doanh nghiệp công nghệ cao tiếp tục nhận được sự quan tâm và hỗ trợ vốn từ hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, quy mô của nhóm này vẫn còn khiêm tốn, khi mới chỉ chiếm khoảng 0,43% trong tổng dư nợ tín dụng đối với toàn bộ nền kinh tế.

Quan sát thực tế thị trường tín dụng cũng dễ nhận thấy, các ngân hàng thường đưa ra các gói tín dụng ưu đãi tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp, xuất khẩu, hạ tầng hoặc cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, ít có các sản phẩm dành riêng cho đổi mới sáng tạo, công nghệ cao với lãi suất ưu đãi, kỳ hạn dài hơn, hoặc linh hoạt trong các điều kiện bảo đảm, tài sản thế chấp.
Trong khi đó, theo các doanh nghiệp, trong lĩnh vực công nghiệp nói chung và công nghệ cao nói riêng, hoạt động sản xuất – kinh doanh thường phải đối mặt với chi phí lớn để nghiên cứu, phát triển mẫu thử nghiệm, lao động chất lượng cao, nhưng thời gian hoàn vốn dài.
Về vấn đề này, ông Hoàng Hữu Yên - Tổng Giám đốc Tập đoàn Kỹ thuật và Công nghiệp Việt Nam (Intech Group) chia sẻ, việc cập nhật dây chuyền sản xuất theo công nghệ mới, công nghệ cao là yêu cầu bắt buộc khi doanh nghiệp muốn trở thành mắt xích trong chuỗi cung ứng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).
Vì thế, ông Yên cho hay, doanh nghiệp phải chuẩn bị sẵn nguồn lực tài chính lớn, như Intech Group là mặc định tách ra khoảng 5% doanh thu hàng năm để phục vụ nghiên cứu phát triển sản phẩm, từ đó sản xuất đơn hàng xuất khẩu đến nhiều thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản…

Cần thể chế tài chính đặc thù, tín dụng ưu đãi riêng
Theo đánh giá của chuyên gia kinh tế TS. Cấn Văn Lực và nhóm nghiên cứu BIDV, chính sách về tài chính, tín dụng cho phát triển công nghiệp chưa hiệu quả.
Thứ nhất là tiếp cận vốn còn khó khăn, nhất là với các doanh nghiệp nhỏ và vừa vì thiếu tài sản thế chấp, thiếu báo cáo tài chính minh bạch, dự án khả thi, quản trị doanh nghiệp bất cập, được đánh giá rủi ro…, trong khi các tổ chức tài chính không phải lúc nào cũng có gói tín dụng phù hợp, đặc thù và chưa linh hoạt trong vấn đề tài sản thế chấp.
Thứ hai là chưa có cơ chế tài chính đặc thù cho công nghiệp, do chính sách tài chính, tín dụng chủ yếu mang tính chung cho toàn nền kinh tế, chưa có chính sách tài chính, tín dụng riêng cho phát triển công nghiệp hoặc công nghiệp phụ trợ.
Cùng với đó là thiếu nguồn tài chính dài hạn cho đầu tư phát triển công nghiệp, đổi mới công nghệ, khi đa phần vốn đầu tư là ngắn - trung hạn, trong khi nhu cầu vốn đầu tư phát triển là dài hạn, nhưng thị trường trái phiếu doanh nghiệp chưa phát triển, huy động vốn qua kênh phát hành cổ phiếu còn rất khiêm tốn, thị trường quỹ đầu tư còn rất nhỏ.
Những hạn chế nêu trên đang tạo thành điểm nghẽn lớn, khiến doanh nghiệp gặp hạn chế trong việc đầu tư nâng cấp công nghệ, phát triển sản phẩm mới hay mở rộng quy mô sản xuất. Điều này đặc biệt đáng lo ngại trong bối cảnh Việt Nam đang đặt mục tiêu gia nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu với các ngành công nghiệp chiến lược như bán dẫn, ô tô, cơ khí chính xác hay năng lượng sạch…
Theo TS. Cấn Văn Lực, để gỡ nút thắt về tín dụng công nghệ cao, trước hết cần hoàn thiện thể chế tài chính đặc thù, có chính sách tín dụng riêng cho phát triển công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp công nghệ cao. Cơ chế ưu đãi phải thiết kế theo hướng minh bạch, tự nguyện, phù hợp với cam kết quốc tế và có thể đo lường hiệu quả thay vì đặt ra các điều kiện ép buộc như chuyển giao công nghệ cứng nhắc.
Tín dụng xanh, thị trường trái phiếu doanh nghiệp và các quỹ đầu tư mạo hiểm cũng cần được thúc đẩy mạnh mẽ hơn để tạo thêm các kênh vốn trung và dài hạn, phù hợp với chu kỳ phát triển của doanh nghiệp công nghệ – nơi đòi hỏi chi phí đầu tư lớn và thời gian hoàn vốn dài.
Bên cạnh đó là cần sớm triển khai các chính sách đã ban hành, thiết lập Quỹ phát triển công nghiệp chiến lược, để tạo thành công cụ tài chính dài hạn do Nhà nước chủ trì, kết hợp với khu vực tư nhân, nhằm hỗ trợ lãi suất ưu đãi cho các dự án đầu tư sản xuất linh kiện, vật liệu công nghệ cao và các sản phẩm có cam kết chuyển giao công nghệ.
Trên hết, theo các chuyên gia, Việt Nam cần một chiến lược tổng thể để phát triển các cụm ngành công nghiệp giá trị cao, gắn với nâng cấp hạ tầng năng lượng và logistics, thúc đẩy ứng dụng công nghệ số và đào tạo nguồn nhân lực chuyên sâu. Những nền tảng này không thể chỉ dựa vào nỗ lực đơn lẻ của doanh nghiệp hay cơ quan quản lý, mà cần có sự vào cuộc đồng bộ, phối hợp giữa nhiều bên.