Loạt bài: Nguồn lực tài chính cho Việt Nam vào “đường đua” công nghệ cao

Bài 1: Tầm nhìn Việt Nam 2045 và áp lực đổi mới

Bình Nam

Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa chuyển mình mạnh mẽ, với mục tiêu trở thành nền kinh tế thu nhập cao vào năm 2045. Tầm nhìn này đòi hỏi sự thay đổi căn bản, từ mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ và sản xuất gia công, chuyển sang một nền kinh tế tri thức, sáng tạo, nơi công nghệ và con người là trung tâm.

Nước ta đã có nhiều định hướng, chỉ đạo về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo. Ảnh minh hoạ: H.D
Nước ta đã có nhiều định hướng, chỉ đạo về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo. Ảnh minh hoạ: H.D

Việt Nam tiếp tục cải thiện về chỉ số đổi mới sáng tạo

Mới đây, Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) đã công bố Báo cáo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu (GII) 2025.

Theo đó, Việt Nam được xếp hạng 44/139 quốc gia, nền kinh tế, duy trì thứ hạng năm 2024. Việt Nam tiếp tục có sự cải thiện thứ hạng đầu vào đổi mới sáng tạo, tăng 3 bậc so với năm 2023, từ vị trí 53 lên 50 (đầu vào đổi mới sáng tạo gồm 5 trụ cột: Thể chế, Nguồn nhân lực và nghiên cứu, Cơ sở hạ tầng, Trình độ phát triển của thị trường, Trình độ phát triển của doanh nghiệp).

 

Báo cáo GII 2025 ghi nhận Việt Nam là một trong 9 quốc gia thu nhập trung bình cải thiện thứ hạng nhanh nhất tính từ năm 2013 (gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, Philippines, Indonesia, Iran, Morocco, Albania và Thổ Nhĩ Kỳ).

Việt Nam cũng là một trong 2 quốc gia giữ kỷ lục có thành tích vượt trội so với mức độ phát triển trong 15 năm liên tiếp (gồm Ấn Độ và Việt Nam).

Có thể nói, kết quả nêu trên có được là nhờ trong vài năm trở lại đây, các định hướng chính sách từ Đảng, Nhà nước và Chính phủ đều thể hiện cam kết mạnh mẽ, coi khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo là động lực tăng trưởng.

Đáng chú ý nhất là Nghị quyết số 57-NQ-TW của Bộ Chính trị, ban hành ngày 22/12/2024, về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Trong đó, Nghị quyết xác định tầm nhìn đến năm 2030, tiềm lực khoa học công nghệ Việt Nam đạt mức tiên tiến ở nhiều lĩnh vực quan trọng, và đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập cao nhờ sự phát triển vững chắc của khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Ngoài ra, còn có thể kể đến Quyết định số 1018/QĐ-TTg ngày 21/9/2024 của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển công nghiệp bán dẫn Việt Nam đến năm 2030 và tầm nhìn 2050. Quyết định số 1002/QĐ-TTg ngày 24/5/2025 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025 - 2035.

Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngày 12/6/2025 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục 11 nhóm công nghệ chiến lược, bao gồm Trí tuệ nhân tạo (AI), điện toán đám mây, dữ liệu lớn, Blockchain, mạng 5G/6G, chip bán dẫn, robot và tự động hóa, y - sinh học, vật liệu tiên tiến, an ninh mạng và công nghệ hàng không vũ trụ…

Mới đây nhất là Nghị định số 249/2025/NĐ-CP ngày 19/9/2025 của Chính phủ quy định cơ chế, chính sách thu hút chuyên gia khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số...

Theo nhận xét tại Báo cáo Điểm lại tháng 9/2025 của Ngân hàng Thế giới (WB), thứ hạng của Việt Nam được nâng lên trong Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu phản ánh những tiến triển cụ thể về năng lực đổi mới sáng tạo của quốc gia.

Kết quả đó có được là nhờ chú trọng mạnh vào vốn nhân lực - có nhiều sinh viên lĩnh vực STEM (khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học) cũng như một vài cơ sở giáo dục đại học có danh tiếng - cùng với trọng tâm chính sách mới tập trung vào khoa học và công nghệ.

Đáng chú ý là điểm về Chỉ số vốn nhân lực của Việt Nam thuộc dạng cao nhất trong nhóm các quốc gia có cùng mức thu nhập, thể hiện kết quả vững chắc về giáo dục cơ bản. Tuy nhiên, theo WB, đây chỉ là đà ban đầu để có được tăng trưởng dựa vào đổi mới sáng tạo, giá trị cao theo tham vọng của Việt Nam.

Chi cho R&D còn khiêm tốn

Tuy nhiên, theo tính toán của WB, tổng chi cho nghiên cứu và phát triển (R&D) của Việt Nam chỉ đạt 0,5% GDP, thấp hơn nhiều so với Hàn Quốc (4,8% GDP) hoặc Trung Quốc và các quốc gia trong khu vực như Malaysia, Thái Lan.

Điều này cho thấy Việt Nam đang phải đối mặt với khoảng cách lớn về đầu tư cho giáo dục đại học và R&D so với các quốc gia hàng đầu trong khu vực.

Nguồn: Báo cáo Điểm lại tháng 9/2025 của WB.
Nguồn: Báo cáo Điểm lại tháng 9/2025 của WB.

WB cho rằng, đầu tư thấp khiến cho Việt Nam chưa có được cụm khoa học và công nghệ lớn tầm cỡ toàn cầu, chưa có được số lượng các sản phẩm nghiên cứu khoa học cần thiết để tạo động lực cho nền kinh tế dựa trên đổi mới sáng tạo.

Chính vì vậy, số lượng các công bố khoa học, bằng sáng chế và kết quả đổi mới sáng tạo công nghệ cao còn hạn chế, trong khi chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp còn chậm.

Ngoài ra, chi tiêu của doanh nghiệp cho R&D ở Việt Nam chỉ đạt 0,2% GDP, thấp hơn nhiều so với mức 1,7% ở Trung Quốc và 3,6% ở Hàn Quốc. Chỉ có ít doanh nghiệp thực hiện các hoạt động đổi mới sáng tạo đáng kể trong nội bộ, ngay cả các quốc gia tầm trung ở ASEAN cũng đầu tư cho R&D ở khu vực tư nhân cao hơn.

Nên theo WB, khu vực tư nhân ở Việt Nam chưa nổi lên trở thành động lực lớn cho đổi mới sáng tạo, vì hầu hết doanh nghiệp vẫn dựa vào công nghệ nhập khẩu hoặc chỉ chỉnh lý nhỏ, thay vì kết quả R&D gốc.

Với thực trạng nêu trên, các chuyên gia cho rằng, nếu muốn hiện thực hóa các mục tiêu thì nước ta cần làm nhiều hơn là chỉ cải thiện chính sách ở tầm vĩ mô. Đầu tư cho R&D, cơ sở hạ tầng công nghệ và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo cần được đẩy mạnh và đổi mới cả về quy mô lẫn hiệu quả, đặc biệt là trong khu vực tư nhân.

Quan trọng hơn, yếu tố con người phải được đặt ở trung tâm. Muốn có nhân tài về công nghệ cao, không chỉ cần trường lớp, mà còn cần một cơ chế tài chính đủ hấp dẫn để thu hút, giữ chân và phát triển lực lượng trong và ngoài nước.