Loạt bài: Nguồn lực tài chính cho Việt Nam vào “đường đua” công nghệ cao

Bài 2: Cần cơ chế tài chính để thu hút và bồi dưỡng nhân tài

Bình Nam

Nhân tài là nền móng của mọi chiến lược công nghệ cao. Việc có một lực lượng lao động đông, trẻ, trình độ cao và linh hoạt sẽ giúp Việt Nam tận dụng các cơ hội của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số và hội nhập chuỗi giá trị toàn cầu.

Bài 1: Tầm nhìn Việt Nam 2045 và áp lực đổi mới

Đào tạo nhân lực công nghệ cao đang là ưu tiên của nhiều trường và doanh nghiệp. Ảnh minh hoạ: H.D
Đào tạo nhân lực công nghệ cao đang là ưu tiên của nhiều trường và doanh nghiệp. Ảnh minh hoạ: H.D

Doanh nghiệp “khát” nhân tài

Việt Nam luôn được nhận định là có lực lượng lao động trẻ và đông đảo, nhưng chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng được yêu cầu về phát triển công nghệ cao vẫn là một bài toán khó.

Chia sẻ về vấn đề này, ông Trần Nam Hải - Phó Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Truyền thông và Máy tính Thánh Gióng cho hay, với mục tiêu tăng trưởng từ 30 – 50% và kế hoạch mở rộng hệ thống phân phối ra toàn quốc, nhu cầu tuyển dụng của Công ty hiện khá lớn, đặc biệt là các vị trí kết hợp được tư duy công nghệ và khả năng phát triển thị trường. Tuy nhiên, dù sinh viên tốt nghiệp là nguồn ứng viên tiềm năng nhưng vẫn phải đào tạo thêm để bắt nhịp với yêu cầu thực tế của công việc.

Cũng “khát” nguồn nhân lực có chuyên môn cao, ông Lê Đức Phương - Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Khóa Việt Tiệp cho biết, Công ty muốn tìm kiếm người lao động có thể bắt tay ngay vào công việc, nhất là khi doanh nghiệp đang liên tục đổi mới dây chuyền sản xuất hiện đại, công nghệ cao.

Theo báo cáo Điểm lại tháng 9/2025 với chuyên đề “Bứt tốc phát triển nhân tài công nghệ cao của Việt Nam” của Ngân hàng Thế giới (WB), dù nguồn nhân tài đang từng bước phát triển, lực lượng lao động nghiên cứu nòng cốt của Việt Nam còn khiêm tốn so với quy mô dân số và tỷ lệ này hầu như không thay đổi trong gần một thập kỷ qua.

Năm 2023, cả nước có khoảng 80.900 nhân lực nghiên cứu và phát triển - R&D (quy đổi toàn thời gian) – chỉ chiếm khoảng 0,15% tổng số lực lượng lao động, nghĩa là chỉ có chưa đến 800 cán bộ nghiên cứu trên một triệu dân vào năm 2023, thấp hơn đáng kể so với các quốc gia hàng đầu trong khu vực và thấp hơn mục tiêu quốc gia đề ra là đạt ít nhất 12 nhân lực R&D toàn thời gian trên mỗi 10.000 dân vào năm 2030.

Cũng theo WB, lực lượng nhân tài công nghệ hàng đầu có chuyên môn sâu còn ít ỏi vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của hệ thống đổi mới sáng tạo còn yếu. Vì vậy, các doanh nghiệp chưa đầu tư nhiều cho R&D, một phần do hạn chế về nhân tài; trong khi đó, các nhà nghiên cứu tài năng thường thiếu môi trường hỗ trợ và có xu hướng chuyển sang các ngành nghề khác.

Xây dựng cơ chế ưu tiên, phá bỏ giới hạn

Tình trạng thiếu hụt nhân lực công nghệ chất lượng cao không chỉ là thách thức riêng của các doanh nghiệp, mà còn là vấn đề của toàn bộ hệ sinh thái đổi mới sáng tạo.

Theo các chuyên gia, khi doanh nghiệp không thể tiếp cận đủ nhân tài, họ sẽ không dám đầu tư mạnh vào R&D; ngược lại, khi hệ thống R&D chưa phát triển, nhân tài cũng thiếu môi trường để phát triển và cống hiến. Đây là vòng luẩn quẩn mà Việt Nam cần nhanh chóng phá vỡ bằng các cơ chế chính sách tài chính đột phá và linh hoạt, từ thu hút đến bồi dưỡng, từ đãi ngộ đến tạo động lực dài hạn.

Nghị định số 249/2025/NĐ-CP ngày 19/9/2025 quy định cơ chế, chính sách thu hút chuyên gia khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, được đánh giá là động thái khẳng định quyết tâm của Chính phủ trong xây dựng chính sách đãi ngộ toàn diện, tạo động lực giữ chân nhân tài.

Theo đó, Nghị định số 249/2025/NĐ-CP được áp dụng cho cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người nước ngoài đáp ứng tiêu chí chuyên gia theo quy định, cùng các đơn vị, tổ chức và doanh nghiệp được giao chủ trì thực hiện chương trình, nhiệm vụ, dự án khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Theo Nghị định số 249/2025/NĐ-CP, mức lương của chuyên gia được thỏa thuận trong hợp đồng lao động, bảo đảm tương xứng với nhiệm vụ và phù hợp với thị trường lao động trong lĩnh vực khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. Đây là thay đổi quan trọng, phá bỏ giới hạn “khung lương cứng” vốn được xem là rào cản lớn trong việc thu hút nhân tài. Ngoài lương, chuyên gia còn được hưởng tiền thưởng hàng năm tối đa bằng 4 tháng lương, căn cứ trên kết quả thực hiện nhiệm vụ…

Bên cạnh lương, thưởng, Nghị định số 249/2025/NĐ-CP còn đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ như hỗ trợ tiền thuê nhà, phương tiện đi lại hoặc cung cấp căn hộ tiêu chuẩn, chế độ y tế, nghỉ dưỡng…, giúp chuyên gia ổn định cuộc sống và yên tâm cống hiến. 

Còn để bồi dưỡng nhân tài, “bước ngoặt” lớn về chính sách là Quyết định số 29/2025/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng đối với học sinh sinh viên, học viên thạc sĩ, nghiên cứu sinh học các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán đã được ban hành.

Theo đó, Quyết định số 29/2025/QĐ-TTg đã mở rộng đáng kể đối tượng thụ hưởng, điều kiện vay vốn được thiết kế minh bạch và mức vốn vay tối đa được nâng cao, với lãi suất ưu đãi 4,8%/năm.

Theo dự báo của Bộ Tài chính, nhu cầu vốn cho chương trình này lên tới 3.500 tỷ đồng mỗi năm, với khoảng 35.000 học sinh, sinh viên và học viên sau đại học có nhu cầu vay vốn. Vì thế, việc Quyết định số 29/2025/QĐ-TTg đi vào hoạt động được kỳ vọng sẽ giúp các mục tiêu tại Đề án đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển công nghệ cao giai đoạn 2025-2035, định hướng tới năm 2045 trở thành hiện thực.

Có thể thấy, Việt Nam đã và đang thiết lập một nền tảng chính sách tài chính hướng tới mục tiêu dài hạn là xây dựng nguồn nhân lực công nghệ cao, cả về số lượng lẫn chất lượng. Tuy nhiên, để chính sách thực sự đi vào cuộc sống, điều quan trọng không chỉ là mức ưu đãi, mà còn là sự ổn định và tính đồng bộ trong hệ thống tài chính hỗ trợ đổi mới sáng tạo.

Chính vì vậy, bước tiếp theo trên hành trình này là phải mở rộng và làm dày hơn các kênh tín dụng và nguồn vốn đầu tư cho đổi mới sáng tạo – không chỉ cho cá nhân mà còn cho các tổ chức, doanh nghiệp đang ươm mầm công nghệ mới.