Chính sách Bảo hiểm y tế: Nguồn lực bảo đảm cho cơ chế tài chính y tế toàn dân
Bài 2: Nguồn lực tài chính quan trọng thúc đẩy cơ sở y tế phát triển
Cùng với ngân sách nhà nước, quỹ Bảo hiểm y tế (BHYT) đã và đang là nguồn lực tài chính quan trọng để duy trì và nâng cao chất lượng hoạt động khám, chữa bệnh tại hầu hết các cơ sở y tế trên cả nước

Trước khi có chính sách Bảo hiểm y tế (BHYT), hầu hết các cơ sở khám, chữa bệnh đều phụ thuộc nhiều và nguồn kinh phí bao cấp từ Nhà nước. Cơ chế thu viện phí từ người dân cũng mang lại nhiều bất cập, đem lại khó khăn nhiều mặt trong công tác quản lý, cũng như chất lượng dịch vụ y tế. Chính sách BHYT ra đời đã góp phần “giải tỏa” những khó khăn trên. Quỹ BHYT đã và đang trở thành nguồn lực tài chính quan trọng với hệ thống các cơ sở khám, chữa bệnh trên cả nước.
Trở lại với câu chuyện thí điểm bảo hiểm khám chữa bệnh nhân đạo theo cơ chế BHYT tại huyện Sông Thao (tỉnh Phú Thọ), hiệu quả đem lại rất đáng ghi nhận chỉ sau 3 đợt thực hiện trong khoảng thời gian từ tháng 8/1989 đến 31/12/1991. Nếu như trước đó, các cơ sở y tế gặp khó khăn về tài chính (nguồn chu cấp từ ngân sách nhà nước hạn chế và thu viện phí từ người dân không thực sự hiệu quả), thì cơ chế BHYT đã cho thấy sự chuyển biến tích cực.
Khi hạch toán chi phí tại cơ sở y tế, so sánh 3 nguồn thu, nguồn ngân sách của nhà nước, nguồn viện phí và nguồn thu từ bảo hiểm khám chữa bệnh lúc đó, nguồn kinh phí của bảo hiểm chiếm tỷ lệ cao nhất, với khoảng 46%, nguồn thu viện phí là 16,38%, nguồn định mức nhà nước cấp là 37,2%. Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, nguồn thu quỹ bảo hiểm tại huyện sông Thao khi đó vẫn đảm bảo có kết dư với tỷ lệ 49,9%; nghĩa là vẫn còn nguồn lực để đảm bảo tiếp tục thực hiện chi.
Đây là những minh chứng ban đầu cho thấy hiệu quả rõ ràng của việc thực hiện cơ chế bảo hiểm trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe, theo nguyên lý lấy số đông bù số ít. Nhìn từ góc độ cơ sở y tế, rõ ràng, quỹ BHYT là nguồn lực tài chính quan trọng để duy trì và nâng cao chất lượng hoạt động khám, chữa bệnh phục vụ người dân. Có BHYT, cơ sở y tế sẽ được đa dạng nguồn thu và không còn phụ thuộc quá nhiều vào nguồn Ngân sách nhà nước; những bất cập, tiêu cực từ việc thu viện phí trực tiếp cũng được giảm đáng kể và không mang lại quá nhiều áp lực cho các bên.
Từ năm 1992 (thời điểm BHYT chính thực được triển khai trên cả nước theo Nghị định số 299-HĐBT) cho đến nay, dù quy định pháp luật cụ thể ở mỗi giai đoạn khác nhau nhưng tính hiệu quả thực tiễn của BHYT ngày càng được chứng minh, nhất là nhìn từ góc độ của cơ sở y tế.
Tính đến hết năm 2024, toàn quốc có 13.395 cơ sở ký hợp đồng khám bệnh, chữa bệnh BHYT, trong đó gồm 1.793 cơ sở công lập và hơn 10.390 trạm y tế xã. Cùng với đó, 1.212 cơ sở y tế tư nhân tham gia sâu rộng vào công tác khám bệnh, chữa bệnh BHYT, góp phần giảm tải bệnh viện công lập.
Cùng với sự gia tăng tỷ lệ bao phủ BHYT toàn dân, số lượt khám, chữa bệnh BHYT gia tăng mạnh ở hầu hết các cơ sở y tế trên cả nước; thường chiếm từ 90-95% tổng số lượt khám, chữa bệnh trong năm. Chưa có số liệu thống kê đầy đủ, tuy nhiên, ghi nhận tại một số bệnh viện lớn cho thấy, nguồn thu từ BHYT thường chiếm khoảng 60-65% tổng thu trong năm.
Số liệu từ Bộ Y tế cho thấy, hằng năm, bình quân quỹ BHYT chi trả từ 87% - 89% tổng chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT; người dân tham gia BHYT chi trả từ 11% - 13% (đồng chi trả theo quy định của Luật BHYT). Tính riêng năm 2024, số lượt khám chữa bệnh BHYT là 183,68 triệu lượt; ước chi khoảng 143 nghìn tỷ đồng.
Trong 6 tháng 2025, chi phí bình quân/lượt khám, chữa bệnh ngoại trú là 808.000 đồng, chí phí bình quân điều trị nội trú 4.955.000 đồng. Trong đó, chi cho dịch vụ kỹ thuật là 60.992,8 tỷ đồng, chi cho thuốc là 52.755 tỷ đồng, chi khám bệnh 32.027,5 tỷ đồng, chi vật tư y tế 17.388,2 tỷ đồng.
Những con số là minh chứng hết sức thực tiễn cho những giá trị mà BHYT đem lại. Với quy mô số chi lên đến hàng trăm nghìn tỷ đồng một năm và liên tục gia tăng qua từng năm, rõ ràng, cùng với ngân sách nhà nước, quỹ BHYT đã và đang là nguồn lực tài chính quan trọng để duy trì hoạt động khám, chữa bệnh tại hầu hết các cơ sở y tế trên cả nước.
Nguyên lý nhân văn lấy số đông bù số ít của chính sách BHYT, đã giúp hàng triệu người không may bị ốm đau, trọng bệnh có cơ hội được tiếp cận các dịch vụ y tế, được điều trị bệnh mà không phải quá lo lắng về chi phí. Đây cũng là nguồn lực để thúc đẩy các cơ sở y tế tiếp tục hoạt động hiệu quả, thực hiện tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe người dân.
Nghị quyết 72-NQ/TW ngày 9/9/2025 của Bộ Chính trị về một số giải pháp đột phá, tăng cường bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân đã đặt ra yêu cầu: Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng bền vững Quỹ BHYT, cải cách thủ tục hành chính, sử dụng tiết kiệm chi phí quản lý, tăng chi cho khám bệnh, chữa bệnh. Thí điểm, đa dạng hóa các gói BHYT, BHYT bổ sung theo nhu cầu của người dân, liên kết giữa BHYT với bảo hiểm sức khỏe do các doanh nghiệp bảo hiểm cung cấp. Khuyến khích phát triển đa dạng các loại hình bảo hiểm sức khỏe.

















