Tỷ lệ nghèo giảm còn 4,06%, mô hình sinh kế vượt 10.500 dự án

Hoàng Minh

Kết quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021-2025 cho thấy, tỷ lệ nghèo đa chiều giảm từ 9,35% xuống 4,06% sau 2 năm; hơn 10.587 mô hình sinh kế được triển khai.

Dự kiến năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo toàn quốc giảm còn khoảng 3%.
Dự kiến năm 2025, tỷ lệ hộ nghèo toàn quốc giảm còn khoảng 3%.

Từ hỗ trợ sang tạo năng lực

Theo đánh giá của các chuyên gia, những năm gần đây, chính sách giảm nghèo bền vững đã bước sang giai đoạn mới với cách tiếp cận đa chiều, ưu tiên sinh kế, năng lực và tính tự chủ của người dân thay vì chỉ hỗ trợ thu nhập như trước đây. Đây là sự chuyển dịch quan trọng về tư duy chính sách, phản ánh bước tiến lớn của Việt Nam trong việc hướng tới mục tiêu “không để ai bị bỏ lại phía sau”.

Dữ liệu cho thấy Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021–2025 đã đạt kết quả vượt kỳ vọng. Tỷ lệ nghèo đa chiều của cả nước giảm từ 9,35% năm 2022 xuống còn 4,06% năm 2024; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn đa chiều giảm từ 4,03% xuống 1,93% cùng giai đoạn. Mức giảm bình quân 2-2,5 điểm phần trăm/năm cao hơn đáng kể so với mục tiêu Quốc hội đặt ra (1-1,5%/năm). Nhóm hộ nghèo dân tộc thiểu số, khu vực khó giảm nhất, cũng ghi nhận mức giảm bình quân 4,3%/năm, từ 21,29% xuống 12,55% trong vòng hai năm.

Những con số trên cho thấy thành quả giảm nghèo không chỉ đạt được nhờ mở rộng phạm vi hỗ trợ mà chủ yếu đến từ các giải pháp mang tính cấu trúc: đào tạo nghề, phát triển sinh kế, bảo đảm tiếp cận dịch vụ xã hội cơ bản và lồng ghép với Chương trình nông thôn mới, Chương trình phát triển vùng dân tộc thiểu số - miền núi.

Đến nay, cả nước đã hình thành 10.587 mô hình, dự án giảm nghèo, thu hút hơn 205.585 hộ nghèo, cận nghèo và hộ mới thoát nghèo tham gia. Trong đó, riêng các mô hình hỗ trợ sản xuất nông nghiệp chiếm tới 6.174 dự án, giúp hơn 99.000 hộ tiếp cận công nghệ, cải thiện năng suất và chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ sang phương thức bài bản hơn.

Việc đầu tư vào năng lực người dân, thay đổi tư duy sản xuất và khơi dậy nội lực đang tạo ra sự bền vững cho quá trình giảm nghèo. Các địa phương miền núi ghi nhận sự thay đổi rõ rệt khi đồng bào dân tộc thiểu số tiếp cận tốt hơn dịch vụ y tế, giáo dục, nước sạch và thị trường lao động. Tỷ lệ các huyện, xã, thôn đặc biệt khó khăn thoát khỏi tình trạng nghèo đặc thù tăng nhanh, còn hạ tầng thiết yếu được cải thiện đáng kể, từ đường giao thông đến điện, trường học và cơ sở y tế.

Nội lực người dân đang thay đổi

Theo TS. Trần Công Thắng - Viện trưởng Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), điểm nổi bật nhất trong công tác giảm nghèo giai đoạn 2020 - 2025 chính là sự đổi mới trong mô hình sinh kế.

Thay vì trợ cấp trực tiếp, các dự án tập trung trao “cần câu” cho người dân thông qua đào tạo kỹ năng, hướng dẫn sản xuất, kết nối thị trường và hình thành cộng đồng cùng phát triển. Đây là lý do khiến mô hình giảm nghèo không chỉ giúp tăng thu nhập mà còn tạo ra chuyển biến trong nhận thức, điều kiện tiên quyết để chống tái nghèo.

Nhiều địa phương đã khai thác thế mạnh bản địa bằng cách lựa chọn mô hình phù hợp với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng và tập quán sản xuất. Phát triển cây dược liệu ở vùng núi cao, nuôi gia súc tập trung, trồng cây ăn quả theo tiêu chuẩn VietGAP hay triển khai mô hình OCOP đều cho thấy hiệu quả rõ rệt. Việc xây dựng chuỗi giá trị – từ sản xuất đến tiêu thụ – giúp hộ nghèo tham gia sâu hơn vào thị trường thay vì chỉ sản xuất manh mún như trước.

Cùng với đó, các mô hình đào tạo nghề và tạo việc làm cho lao động nghèo mang lại tác động tích cực. Sau các khóa đào tạo ngắn hạn, nhiều lao động được giới thiệu việc làm ổn định hoặc tự khởi nghiệp tại địa phương. Thu nhập cải thiện đã góp phần giảm áp lực di cư tự phát từ nông thôn ra đô thị. Đây là xu hướng quan trọng khi Việt Nam hướng tới phát triển bao trùm và bền vững.

Tuy nhiên, TS. Trần Công Thắng cũng chỉ ra một số thách thức. Năng lực quản lý ở cấp cơ sở vẫn còn hạn chế; nhiều cán bộ kiêm nhiệm và thiếu kỹ năng lập kế hoạch, đánh giá hiệu quả dự án; nguồn lực đầu tư còn phân tán và trong giai đoạn đầu 2021-2022 phân bổ chậm. Bên cạnh đó, nguy cơ tái nghèo và phát sinh nghèo mới vẫn hiện hữu, nhất là tại vùng dân tộc thiểu số, miền núi - nơi thường xuyên chịu tác động của thiên tai, dịch bệnh và biến đổi khí hậu.

Dù còn nhiều khó khăn, cách tiếp cận giảm nghèo hiện nay được đánh giá là đi đúng hướng. Thành quả giảm nghèo của Việt Nam không chỉ được thể hiện ở tỷ lệ nghèo giảm nhanh mà còn ở sự trưởng thành về năng lực của người dân.

Việc chú trọng vào nội lực cộng đồng đang tạo ra nền tảng vững chắc hơn, giúp tiến trình giảm nghèo bước sang giai đoạn mới: giảm nghèo không chỉ là nâng thu nhập mà là nâng chất lượng cuộc sống và khả năng tự chủ của mỗi người dân.