Làm rõ đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, đảm bảo minh bạch và dễ thực thi
Thực thi Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) vừa được ban hành, Bộ Tài chính đã xây dựng dự thảo Nghị định hướng dẫn chi tiết, xác định rõ các nhóm hàng hóa, dịch vụ thuộc diện chịu thuế. Những quy định chi tiết sẽ hóp phàn bảo đảm tính minh bạch, thống nhất, đồng thời tạo thuận lợi trong triển khai, giám sát thực thi chính sách thuế.

Theo Điều 2 của Luật Thuế TTĐB, hiện có 11 nhóm hàng hóa và 6 nhóm dịch vụ thuộc diện chịu thuế. Luật đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết một số nội dung để phù hợp với thực tế. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ dự thảo Nghị định với một số nội dung cụ thể.
Theo đó, để đảm bảo rõ ràng, minh bạch, thuận lợi triển khai thực hiện, Bộ Tài chính trình Chính phủ quy định chi tiết tại khoản 1 Điều 3 với xe có gắn động cơ dưới 24 chỗ như sau: xe ô tô chở người; xe bốn bánh có gắn động cơ; xe ô tô pick-up chở người; xe pick-up chở hàng cabin kép; xe ô tô tải VAN có từ hai hàng ghế trở lên, có thiết kế vách ngăn cố định giữa khoang chở người và khoang chở hàng đều thuộc diện chịu thuế TTĐB. Các loại xe chuyên dụng như xe cứu thương, xe tang lễ, xe chở phạm nhân… được loại trừ theo quy định của Luật và Nghị định.
Với máy bay, trực thăng, tàu lượn và du thuyền, các phương tiện này thuộc diện chịu thuế TTĐB, trừ trường hợp sử dụng cho mục đích vận chuyển hàng hóa, hành khách, du lịch hoặc phục vụ quốc phòng, an ninh, cứu hộ, cứu nạn, chữa cháy, đào tạo phi công, quay phim, chụp ảnh, sản xuất nông nghiệp.
Cùng với đó, Bộ Tài chính đề xuất tiếp tục áp dụng thuế TTĐB với máy điều hòa nhiệt độ có công suất từ 24.000 BTU đến 90.000 BTU (trừ loại lắp đặt trên phương tiện vận tải). Đáng chú ý, trường hợp nhập khẩu riêng lẻ từng bộ phận như cục nóng, cục lạnh, các linh kiện này vẫn được xác định là hàng hóa chịu thuế như sản phẩm hoàn chỉnh. Với hệ thống điều hòa trung tâm trên 90.000 BTU, Bộ Tài chính sẽ hướng dẫn chi tiết về hồ sơ để xác định đối tượng không chịu thuế.
Đáng chú ý, Luật Thuế TTĐB đã bổ sung quy định tại điểm l khoản 1 Điều 2, đưa nước giải khát theo Tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) có hàm lượng đường trên 5g/100ml vào diện chịu thuế TTĐB. Bộ Tài chính đề xuất Chính phủ quy định chi tiết tại khoản 4 Điều 3 dự thảo Nghị định: Nước giải khát chịu thuế TTĐB là nước giải khát theo TCVN 12828:2019 có hàm lượng đường trên 5g/100ml, bao gồm các loại đồ uống hương liệu, nước tăng lực, nước thể thao, nước điện giải, nước có chứa cà phê, chè, thảo mộc, trái cây và đồ uống từ ngũ cốc.
Quy định này không áp dụng đối với sữa và sản phẩm từ sữa, thực phẩm dạng lỏng dùng cho mục đích dinh dưỡng, nước khoáng thiên nhiên, nước uống đóng chai, nước rau quả, nectar rau quả và sản phẩm từ cacao. Hàm lượng đường được xác định theo hướng dẫn của Bộ Y tế về ghi nhãn hàng hóa, căn cứ vào thông tin công bố trên nhãn sản phẩm.
Bên cạnh đó, dự thảo cũng làm rõ các dịch vụ thuộc diện chịu thuế TTĐB, gồm: kinh doanh vũ trường, karaoke, massage, casino, trò chơi điện tử có thưởng, đặt cược, kinh doanh golf và xổ số. Quy định viện dẫn trực tiếp các nghị định chuyên ngành để đảm bảo tính thống nhất, tránh chồng chéo
Bộ Tài chính nêu rõ, trong trường hợp cần thiết, để phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội, Bộ Tài chính sẽ phối hợp với các bộ, ngành báo cáo Chính phủ trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định sửa đổi hoặc bổ sung đối tượng chịu thuế TTĐB.
Dự thảo Nghị định một lần nữa khẳng định mục tiêu của Bộ Tài chính là đảm bảo quy định pháp luật rõ ràng, minh bạch, phù hợp với thực tế, đồng thời tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc quản lý thuế và chống thất thu ngân sách.
Theo nhiều chuyên gia, việc ban hành kịp thời Luật Thuế TTĐB và văn bản hướng dẫn thi hành cho thấy sự chủ động của Nhà nước trong việc điều tiết tiêu dùng, định hướng sản xuất và tăng cường nguồn thu ngân sách. Những quy định chi tiết, cụ thể giúp giảm thiểu vướng mắc trong thực tiễn, bảo đảm sự đồng bộ với các tiêu chuẩn quốc gia và quy định chuyên ngành.
Đặc biệt, việc đưa nước giải khát có đường vào diện chịu thuế phản ánh xu hướng chính sách tài chính gắn liền với mục tiêu bảo vệ sức khỏe cộng đồng, phù hợp với thông lệ quốc tế. Có thể nói, đây là bước đi vừa kịp thời vừa sát thực tế, khẳng định vai trò của chính sách thuế không chỉ là công cụ tài khóa mà còn là đòn bẩy quan trọng trong quản lý xã hội và phát triển bền vững.