![]() |
Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030 (Chương trình 1719) là một trong những quyết sách chiến lược mang tính nhân văn sâu sắc của Đảng và Nhà nước nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển, cải thiện đời sống và nâng cao vị thế của đồng bào dân tộc thiểu số. Sau 5 năm triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số (DTTS) và miền núi giai đoạn 2021-2030, những vấn đề cấp bách ở địa bàn “lõi nghèo” của cả nước đã cơ bản được giải quyết, góp phần thu hẹp khảng cách phát triển giữa các vùng miền, tạo nền móng vững chắc cho phát triển bền vững vùng dân tộc miền núi.
![]() |
Nếu như trước kia Chương trình 135 từng được xem là “thương hiệu” gắn với hành trình giảm nghèo bền vững ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, thì ngày nay, Chương trình Mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi (Chương trình 1719) đã trở thành điểm tựa kỳ vọng của gần 14,2 triệu người dân. Dù đang bước vào giai đoạn cuối của chặng đường I (2021-2025), Chương trình 1719 đã và đang ngày càng khẳng định rõ vai trò động lực, tháo gỡ những vấn đề bức thiết tồn tại nhiều năm, tạo chuyển biến tích cực từ sinh kế, hạ tầng đến chất lượng cuộc sống. Những đổi thay ấy không chỉ được ghi nhận trên các con số mà còn hiện hữu trong từng thôn bản – nơi khoảng cách phát triển đang dần được thu hẹp, và niềm tin vào sự bứt phá ngày càng hiện hữu.
Tại Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021–2025, định hướng giai đoạn 2026–2030, Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo Đào Ngọc Dung cho biết: Sau hơn ba năm triển khai, Chương trình 1719 đã mang lại nhiều kết quả tích cực, góp phần tạo nền tảng cho phát triển bền vững tại những khu vực đặc biệt khó khăn.
Theo Bộ Dân tộc và Tôn giáo, Chương trình 1719 dù chỉ chính thức triển khai từ cuối năm 2022, song các dự án, tiểu dự án và chính sách hỗ trợ đã tác động rõ rệt đến đời sống kinh tế - xã hội tại vùng sâu, vùng xa. Chương trình tạo bước đột phá trong công tác giảm nghèo tại khu vực được xem là "lõi nghèo" của cả nước. Từ năm 2021 đến tháng 3/2025, bình quân tỷ lệ nghèo đã giảm 3,4%/năm (dự kiến cả giai đoạn 2021-2025 giảm bình quân 3,2%/năm), đạt mục tiêu Chương trình đề ra (giảm từ 3% trở lên).
![]() |
Trên lĩnh vực kinh tế, 403 dự án phát triển sản xuất theo chuỗi giá trị đã được triển khai với sự tham gia của 817 doanh nghiệp và hợp tác xã, tạo đầu ra bền vững và thúc đẩy kinh tế cộng đồng. Các mô hình nông nghiệp ứng dụng tiến bộ kỹ thuật cũng thu hút hơn 36.000 hộ tham gia, từng bước hình thành vùng sản xuất hàng hóa gắn với thị trường.
Trong lĩnh vực y tế, hơn 3,88 triệu lượt dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em đã được thực hiện, góp phần giảm nguy cơ tử vong và nâng cao thể trạng cộng đồng ở những nơi còn nhiều khó khăn. Chương trình đồng thời lồng ghép mạnh mẽ yếu tố giới, tăng cường vai trò phụ nữ và trẻ em gái trong phát triển kinh tế hộ, hướng tới cộng đồng bình đẳng và phát triển bền vững.
Bên cạnh đó, việc đầu tư cơ sở hạ tầng để phát triển kinh tế-xã hội, phục vụ nhu cầu dân sinh ở vùng đồng bào DTTS và miền núi cũng đạt nhiều dấu ấn đậm nét. Chỉ riêng hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế-xã hội, vốn Chương trình 1719 đã đầu tư 6.018 công trình giao thông nông thôn phục vụ sản xuất, kinh doanh và dân sinh; cứng hoá 8.673 km đường giao thông; 442 công trình cung cấp điện phục vụ sinh hoạt và sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thôn, bản.
Ngoài ra, trong giai đoạn I của Chương trình, toàn vùng có 1.787 nhà sinh hoạt cộng đồng, 225 trạm y tế xã, 629 công trình trường, lớp học đạt chuẩn được sửa chữa, xây mới; 986 công trình thủy lợi nhỏ được xây mới hoặc cải tạo; 666 công trình hạ tầng quy mô nhỏ khác do cộng đồng đề xuất được đầu tư; 2.006 dự án đầu tư cơ sở hạ tầng thực hiện theo cơ chế đặc thù về đầu tư xây dựng; thực hiện duy tu, bảo dưỡng bằng nguồn vốn của Chương trình đối với 5.484 công trình cơ sở hạ tầng trên địa bàn xã, thôn đặc biệt khó khăn…
Bộ Dân tộc và tôn giáo cho biết, trong tổng số 9 nhóm mục tiêu, đã có 6 nhóm cơ bản đạt và vượt kế hoạch, bao gồm giảm nghèo, tăng thu nhập, giáo dục, đào tạo nghề, bảo tồn văn hóa và y tế. Đáng chú ý, thu nhập bình quân của người DTTS đạt 43,4 triệu đồng/năm, tăng gấp 3,1 lần so với năm 2020 và dự kiến chạm mốc 45,9 triệu đồng vào cuối năm 2025, tăng 3,3 lần so năm 2020. Con số này không chỉ vượt xa mục tiêu Chương trình (năm 2025 tăng trên 2 lần) mà còn vượt xa những đánh giá từng được cho là khó khả thi khi Quốc hội thảo luận Đề án Tổng thể vào năm 2019. Cùng đó, tỷ lệ lao động người DTTS qua đào tạo đạt 54,8%, vượt xa chỉ tiêu đề ra, mở ra chuyển biến rõ rệt về chất lượng nguồn nhân lực.
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung khẳng định, những kết quả này không chỉ là con số thống kê mà là minh chứng thuyết phục cho định hướng đúng đắn của Chương trình 1719, đồng thời tạo nền tảng và niềm tin để bước vào giai đoạn 2026–2030 với kỳ vọng bứt phá mạnh mẽ hơn.
![]() |
![]() |
Theo Bộ Dân tộc và Tôn giáo, dù đạt nhiều kết quả quan trọng, Chương trình MTQG 1719 vẫn còn tồn tại những “nút thắt” cần tháo gỡ. Khó khăn lớn nhất xuất phát từ việc đây là chương trình MTQG đầu tiên dành riêng cho đồng bào DTTS và miền núi, áp dụng nguyên tắc đầu tư tập trung vào vùng “lõi nghèo” nhưng lại có phạm vi rộng, liên quan đồng thời đến sinh kế, hạ tầng, văn hóa, giáo dục, y tế và an sinh xã hội. Trong khi đó, kinh nghiệm thực tiễn gần như không có để kế thừa, buộc các địa phương vừa triển khai vừa tìm hướng tháo gỡ cho những vấn đề hoàn toàn mới, đòi hỏi sự phối hợp liên ngành, tính linh hoạt và thời gian thích ứng dài hơn dự kiến.
![]() |
Trên thực tế, việc đầu tư cơ sở hạ tầng để phát triển kinh tế-xã hội, phục vụ nhu cầu dân sinh ở vùng đồng bào DTTS và miền núi là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục và đã được triển khai nhiều thập kỷ qua. Mặc dù cơ sở hạ tầng trong những năm qua đã có nhiều cải thiện, song do đặc thù địa hình hiểm trở, chia cắt, lại thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai như lũ quét, sạt lở đất… nên cơ sở hạ tầng ở khu vực miền núi nhanh xuống cấp, thậm chí bị xóa sổ chỉ sau một mùa mưa. Chính vì vậy, hoàn thiện hạ tầng vẫn là mục tiêu then chốt nhưng đầy thách thức trong thời gian tới.
Một hạn chế lớn khác nằm ở việc giải quyết nhu cầu về đất ở và đất sản xuất cho người dân. Tính đến 31/3/2025, hỗ trợ đất ở mới đạt 20,2% kế hoạch (dự kiến hết năm 2025 đạt 45,5%), còn hỗ trợ đất sản xuất chỉ đạt 9,2% (dự kiến đạt 45,5%). Ngay cả phương án thay thế bằng hỗ trợ chuyển đổi nghề khi địa phương không còn quỹ đất hoặc người dân không có nhu cầu nhận đất cũng chưa đạt yêu cầu. Đến nay, mới có 54.899 hộ được hỗ trợ chuyển đổi nghề, tương đương 21,3% kế hoạch (dự kiến hết năm 2025 đạt 38,3%).
Không chỉ vậy, quá trình triển khai giai đoạn I còn bộc lộ nhiều vướng mắc khác như: Giải ngân chậm, nhất là vốn đầu tư phát triển, do thủ tục phức tạp và thay đổi nhiều lần; Hướng dẫn chính sách ban hành chưa đồng bộ, khiến địa phương lúng túng trong tổ chức thực hiện; Cơ chế lồng ghép và phối hợp liên ngành chưa hiệu quả, dẫn đến chồng chéo nhiệm vụ với các chương trình khác; Năng lực cán bộ cơ sở còn hạn chế, trong khi khối lượng công việc lớn và yêu cầu kỹ thuật cao; Khó khăn trong xác định đối tượng thụ hưởng, đặc biệt tại các địa bàn di cư tự do, phân tán; Nguồn lực phân bổ chưa đáp ứng nhu cầu thực tế, nhất là tại các tỉnh có số lượng hộ thiếu đất lớn; Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, thiên tai cực đoan làm tăng chi phí đầu tư và kéo dài tiến độ nhiều dự án.
Chính vì vậy, theo Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo Đào Ngọc Dung, để tháo gỡ những nút thắt trên, Chương trình cần tiếp tục đổi mới phương thức điều hành, khắc phục điểm nghẽn để phát huy hiệu quả bền vững.
![]() |
Bước sang giai đoạn 2026–2030, Chương trình 1719 được kỳ vọng tạo nên bước chuyển mạnh mẽ hơn, với trọng tâm xuyên suốt là “trao quyền cho địa phương”.
![]() |
Nhìn lại chặng đường vừa qua, 1719 không chỉ là chương trình giảm nghèo, mà là một chiến lược phát triển dài hạn, tạo nền tảng cho sinh kế bền vững và thay đổi tư duy phát triển. Từ xóa nhà tạm, nâng thu nhập, đến xây dựng chuỗi giá trị sản xuất và thúc đẩy nội lực cộng đồng, chương trình đã góp phần định hình diện mạo mới cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Dù phía trước còn không ít thách thức, nhưng cách tiếp cận mới “giao quyền, giao trách nhiệm và khuyến khích chủ động” được xem là chìa khóa mở ra một giai đoạn phát triển toàn diện hơn: Linh hoạt, thực chất và dựa trên chính nhu cầu của người dân.
Như lời Bộ trưởng Đào Ngọc Dung khẳng định, mục tiêu của chương trình không chỉ dừng lại ở việc giải quyết những vấn đề trước mắt, mà hướng tới xây dựng nền tảng phát triển lâu dài, để vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi từng bước trở thành “vùng động lực” thay vì “vùng trũng” trong tiến trình phát triển quốc gia.
Đặc biệt, Chương trình 1719 giai đoạn 2026 -2030 phải bám sát nội dung 10 dự án thành phần được phê duyệt tại Nghị quyết số 88/2019/QH14, trong đó bảo đảm ưu tiên giải quyết đồng bộ nhóm vấn đề "5 nhất" trên địa bàn vùng dân tộc thiểu số và miền núi: Điều kiện cơ sở hạ tầng khó khăn nhất; chất lượng nhân lực thấp nhất; kinh tế-xã hội chậm phát triển nhất; tiếp cận dịch vụ khó khăn nhất và tỉ lệ hộ nghèo cao nhất.
Như vậy, Chương trình 1719 đã, đang và sẽ tiếp tục khẳng định vai trò then chốt trong phát triển bền vững vùng đồng bào, hiện thực hóa thông điệp nhân văn “không ai bị bỏ lại phía sau”. Đây không chỉ là cam kết, mà là chiến lược phát triển nhất quán, lâu dài của đất nước.
![]() |