Doanh nghiệp Việt tận dụng ưu đãi thuế quan ở mức thấp

Lê Thu

Mặc dù độ bao phủ của các FTA rất lớn, nhưng tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan của doanh nghiệp Việt chỉ ở mức trung bình khoảng 30-40%.

Bà Bùi Hoàng Yến (bên phải) chia sẻ và trao đổi với doanh nghiệp tại hội thảo
Bà Bùi Hoàng Yến (bên phải) chia sẻ và trao đổi với doanh nghiệp tại hội thảo

Tận dụng ở mức trung bình khoảng 30-40%

Thông tin trên được bà Bùi Hoàng Yến, Đại diện Văn phòng Cục Xúc tiến Thương mại phía Nam (Bộ Công Thương) chia sẻ tại Hội thảo “Cơ hội và thách thức của doanh nghiệp Việt Nam khi thực thi các Hiệp định thương mại quốc tế - FTAs” do Bộ Công Thương tổ chức ngày 25/9.

Theo bà Yến, tiến trình hội nhập của Việt Nam ngày càng trở nên ấn tượng, với việc tham gia vào các FTA và tiếp cận các thị trường rộng lớn như CPTPP, EU.

Tính đến tháng 9/2025, Việt Nam đã ký kết 18 FTA, trong đó 17 hiệp định đã có hiệu lực (bao gồm Hiệp định Thương mại Việt Nam – Cuba), mở ra cánh cửa tiếp cận thị trường với hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ, chiếm gần 90% GDP toàn cầu.

Riêng năm 2024, với độ mở kinh tế lớn, tổng kim ngạch thương mại Việt Nam đã đạt mốc 786,29 tỷ USD, trong đó xuất khẩu tăng trưởng hai con số ở mức 14,3% so với cùng kỳ năm 2023, mang lại thặng dư thương mại 24,8 tỷ USD.

Theo số liệu của Bộ Công Thương, từ năm 2023 đến 2024, doanh thu xuất khẩu đối với hàng hóa được hưởng thuế quan ưu đãi theo FTA đạt tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm là 12,7%. Cùng với đó, việc ký kết các FTA mang tính chiến lược đã khiến Việt Nam trở thành điểm đến hấp dẫn cho các dây chuyền sản xuất từ các nước trên thế giới.

Tuy nhiên, bà Bùi Hoàng Yến cũng cho biết mặc dù độ bao phủ của các FTA lớn, tỷ lệ tận dụng ưu đãi thuế quan của doanh nghiệp Việt chỉ ở mức trung bình khoảng 30-40%. Phân tích số liệu cấp Giấy chứng nhận xuất xứ (C/O) năm 2024 cho thấy sự chênh lệch, với tỷ lệ tận dụng cao ở các thị trường truyền thống như Ấn Độ (mẫu AI, 65,12%), Trung Quốc (mẫu E, 41,84%) và ASEAN (mẫu D, 40,11%), nhưng còn khiêm tốn ở các FTA thế hệ mới như RCEP (1,83%) và CPTPP (8,84%).

Những rào cản chính bao gồm sự phụ thuộc vào các thị trường lớn như Mỹ, Trung Quốc; tỷ lệ nội địa hóa còn thấp dẫn đến sản xuất đòi hỏi nhiều nguyên phụ liệu nhập khẩu; rủi ro đứt gãy chuỗi cung ứng khi nguồn nhập bị gián đoạn; áp lực tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế ngày càng khắt khe về môi trường, lao động, sở hữu trí tuệ và quy định thương mại.

Doanh nghiệp xuất khẩu cần tận dụng tốt các ưu đãi thuế từ FTAs
Doanh nghiệp xuất khẩu cần tận dụng tốt các ưu đãi thuế từ FTAs

Đặc biệt, theo báo cáo về tình hình xuất khẩu 6 tháng đầu năm 2024, Bộ Công Thương đã ghi nhận sự gia tăng đáng kể các cảnh báo liên quan đến kiểm dịch động thực vật. Cụ thể, số lượng cảnh báo về tồn dư chất cấm đã lên tới 57 trường hợp, tăng 80% so với cùng kỳ năm 2023, cho thấy sự gia tăng về số lô hàng không đạt tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm khi xuất khẩu ra thị trường quốc tế. Báo cáo cũng chỉ ra 05 mặt hàng thường xuyên bị thanh tra và liên tục nhận cảnh báo do vi phạm mức dư lượng tối đa cho phép, bao gồm: thanh long, sầu riêng, đậu bắp, ớt và các loại gia vị, thảo dược.

Làm gì để tận dụng ưu đãi thuế quan?

Chia sẻ những thành công thực tế của doanh nghiệp, bà Trần Thị Ngọc Lan – Sáng lập Công ty TNHH Trà ANTO, kiêm Phó Trưởng phòng Kế hoạch Thị trường, Công ty Cổ phần May Chiến Thắng cho rằng, May Chiến Thắng đã đạt 90% doanh thu từ xuất khẩu vào EU nhờ chủ động tìm kiếm nguồn cung nguyên phụ liệu trong nước. Trong khi thương hiệu Hibiso của Công ty ANTO cũng đã thành công xuất khẩu chính ngạch sang thị trường Hàn Quốc và Hà Lan, được miễn thuế nhập khẩu nhờ việc tuân thủ các quy định như sản xuất tại nhà máy đặt chuẩn GMP và được kiểm định bởi tổ chức SGS.

Từ hiệu quả trên, bà Trần Thị Ngọc Lan chia sẻ, để thành công trong việc xuất khẩu, các doanh nghiệp cần chủ động điều chỉnh bao bì, nhãn mác sản phẩm để phù hợp với tiêu chuẩn của thị trường nhập khẩu. Một bước đi quan trọng khác là sử dụng Giấy C/O để nhận được các ưu đãi thuế quan.

“Để đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững ngày càng khắt khe, doanh nghiệp cũng nên chuyển sang sử dụng các nguyên liệu có thể tái chế. Bên cạnh đó, việc hợp tác với các tổ chức kiểm định quốc tế như SGS, Intertek sẽ giúp nâng cao uy tín và đảm bảo chất lượng sản phẩm”, bà Ngọc Lan nhấn mạnh.  

Bà Đinh Thị Hương Giang, Giám đốc Tư vấn, Công ty Kiểm toán và Tư vấn Grant Thornton Việt Nam cho rằng, các FTA tạo ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp Việt Nam, nhưng đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu cao hơn về sự phát triển bền vững. Các tập đoàn quốc tế khi tìm kiếm nhà cung cấp mới sẽ tập trung vào nhiều khía cạnh, bao gồm minh bạch pháp lý và tài chính, tuân thủ quy định quốc tế, cam kết ESG, cũng như khả năng kiểm soát rủi ro và cải tiến liên tục. Việc chuẩn bị kỹ lưỡng cho quá trình thẩm định sẽ giúp doanh nghiệp “ghi điểm” trước các đối tác lớn.

Ở góc độ nhà quản lý, bà Bùi Hoàng Yến cho rằng, doanh nghiệp cần chủ động đầu tư nâng cao chất lượng môi trường và điều kiện lao động để tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế. Song song đó, việc phát triển công nghiệp hỗ trợ và tăng cường liên kết nội khối là yếu tố then chốt để nâng cao năng lực, đáp ứng các quy tắc về nguồn gốc xuất xứ.

Đồng thời, hợp tác chặt chẽ giữa doanh nghiệp vừa và nhỏ với khối FDI cũng được khuyến khích nhằm tạo ra sức mạnh cộng hưởng trong chuỗi cung ứng toàn cầu. 

Bà Yến khẳng định việc triển khai các giải pháp này một cách đồng bộ sẽ tạo động lực để doanh nghiệp Việt Nam chuyển mình, tận dụng lợi thế trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, biến các thách thức thành cơ hội phát triển.