Đào tạo nâng chất nguồn nhân lực cho mô hình tăng trưởng mới
Năng suất lao động của Việt Nam dù đã cải thiện nhưng vẫn chưa đáp ứng kỳ vọng của nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ. Một lực lượng lao động có kỹ năng cao, làm chủ công nghệ, thích ứng nhanh với yêu cầu sản xuất chính là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy tăng trưởng chất lượng trong giai đoạn tới.

Năng suất lao động của Việt Nam vẫn thấp
Bức tranh kinh tế - xã hội giai đoạn 2020-2025 cho thấy những chuyển biến tích cực nhưng cũng không ít thách thức.
Theo báo cáo về đánh giá tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 16/2021/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025 của Bộ Tài chính, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP đã tăng từ 78,6% năm 2020 lên khoảng 80,5% năm 2025; công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục đóng vai trò động lực với giá trị tăng thêm bình quân 6,6%/năm…
Chất lượng tăng trưởng có chuyển biến tích cực, đóng góp của các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 47%.
Tuy vậy, năng suất lao động của Việt Nam vẫn thấp so với nhiều quốc gia trong khu vực. Năng suất lao động theo PPP (2021) của Việt Nam năm 2023 chỉ bằng 11,2% mức năng suất của Singapore; 27% của Hàn Quốc; 28,6% của Nhật Bản; 36,2% của Malaysia; 64,6% của Thái Lan; 57,3% của Trung Quốc; 84,8% của Indonesia và bằng 104,9% của Philippines.
Năm 2026, Quốc hội đã chốt mục tiêu tăng trưởng kinh tế từ 10% trở lên. Theo TS. Nguyễn Quốc Việt - Chuyên gia Chính sách công (Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội), động lực tăng trưởng mới phải dựa nhiều hơn vào chất lượng, vào năng suất từ hiệu quả sử dụng vốn, năng suất lao động đến năng suất tổng hợp TFP…
Để làm được điều này, TS. Việt cho rằng, bên cạnh việc phải nỗ lực hơn nữa trong cải cách thể chế, năng suất lao động cần được nâng cao thông qua ứng dụng khoa học – công nghệ và chất lượng nguồn nhân lực.
Thực tế hiện nay còn cho thấy, nhu cầu nhân lực kỹ thuật cao tăng nhanh không chỉ đến từ khu vực sản xuất, mà còn bùng nổ trong các ngành công nghệ mới như bán dẫn, trí tuệ nhân tạo, năng lượng xanh.
Hơn nữa, các khu công nghiệp mở rộng từ 117.300 ha năm 2020 lên 140.000 ha năm 2025, tạo nhu cầu lớn về lao động kỹ thuật.
Từ đào tạo nghề đến tăng trưởng bền vững
Vì thế, để hoá giải những hạn chế trên, các mô hình hợp tác giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo đang nổi lên như một hướng đi hiệu quả. Nhà giáo ưu tú, TS. Phạm Xuân Khánh – Bí thư Đảng ủy, Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội cho biết, Nhà trường đã triển khai mô hình đào tạo gắn với doanh nghiệp, trong đó doanh nghiệp trực tiếp tài trợ chi phí đào tạo, sinh hoạt và trả lương cho sinh viên.
TS. Phạm Xuân Khánh chia sẻ, Nhà trưởng đã tuyển hơn 100 sinh viên và cam kết tài trợ 24 tỷ đồng cho 100 bạn trong 3 năm học, bao gồm chi phí đào tạo, ăn ở, đi lại và lương trong quá trình thực hành tại doanh nghiệp. Khi vào trường, các em đồng thời trở thành lao động của doanh nghiệp thông qua hợp đồng ký riêng. Năm nay, chỉ tiêu tuyển theo mô hình này lên tới hơn 1.000 sinh viên theo chương trình tương tự.
Theo ông Khánh, đây là cách làm giúp cả ba bên cùng hưởng lợi: doanh nghiệp có lao động chất lượng cao, nhà trường nâng uy tín thương hiệu, còn sinh viên được bảo đảm việc làm ngay sau tốt nghiệp mà không phải đào tạo lại.
Ở lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt là ngành bán dẫn, các trường đại học đang nỗ lực rút ngắn khoảng cách với thực tiễn sản xuất.
GS. Usagawa Tsuyoshi - cố vấn đặc biệt của Hiệu trưởng Trường Đại học Việt Nhật (VJU) nhấn mạnh rằng, sự phối hợp giữa Việt Nam và Nhật Bản sẽ gia tăng mạnh mẽ cơ hội việc làm chất lượng cao. Đến năm 2030, dự kiến khoảng 400 kỹ sư bán dẫn sẽ tốt nghiệp từ Đại học Việt Nhật, cung ứng nguồn nhân lực cho thị trường đang khát nhân lực công nghệ cao.
Nhưng theo GS. Usagawa Tsuyoshi, điểm yếu lớn nhất hiện nay của đào tạo bán dẫn ở Việt Nam là thiếu trải nghiệm thực tế. Các trường mới tập trung vào thiết kế và đóng gói – kiểm thử, trong khi còn thiếu kinh nghiệm trong chế tạo chip và vận hành dây chuyền công nghệ cao.
GS. Usagawa Tsuyoshi cho rằng, ngành bán dẫn không phải lĩnh vực thâm dụng lao động, chi phí nhân công thấp không còn đem lại lợi thế, nên nguồn nhân lực công nghệ cao mới là chìa khóa thu hút đầu tư lâu dài. Cùng với đó, bài toán giữ chân nhân tài cần được đặt đúng trọng tâm với mức đãi ngộ là cần thiết, nhưng “động lực cống hiến” mới quyết định kỹ sư có gắn bó với ngành hay không.
Để thu hẹp khoảng cách đào tạo – sản xuất, PGS.TS. Bùi Nguyên Quốc Trình - Giám đốc Chương trình Công nghệ kỹ thuật Chip bán dẫn của Đại học Việt Nhật cho biết, Việt Nam thiếu các trung tâm nghiên cứu và phát triển (R&D), nên rất cần doanh nghiệp nước ngoài hỗ trợ xây dựng trung tâm nghiên cứu tại Việt Nam để đưa công nghệ hiện đại vào đào tạo.
Theo PGS.TS. Bùi Nguyên Quốc Trình, mô hình đào tạo nhân lực theo cơ chế “đặt hàng” là hướng đi hiệu quả: doanh nghiệp đưa ra yêu cầu về kỹ năng và số lượng, còn trường đại học tư vấn ngược trở lại về xu hướng công nghệ và chuẩn kỹ năng tương lai.
Ở một hướng tiếp cận khác, GS.TS. Nguyễn Văn Nội – Trường Đại học Khoa học tự nhiên (Đại học Quốc gia Hà Nội) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào tạo nhân lực gắn với các vấn đề cấp thiết như môi trường và an toàn thực phẩm. Hơn nữa, hệ thống giáo dục đại học không chỉ giảng dạy mà còn phải là nơi sản sinh hàm lượng nghiên cứu lớn, để tạo ra sản phẩm “Created in Vietnam”, không chỉ đơn thuần “Made in Vietnam”, thể hiện trí tuệ Việt Nam và giúp các nghiên cứu được thương mại hoá.
Nhưng cùng với những định hướng hợp tác như trên, TS. Phạm Xuân Khánh kiến nghị, Chính phủ cần tăng cường hỗ trợ chi phí học nghề, nhất là với học sinh vùng sâu, vùng xa.
Bởi theo ông, chi phí đào tạo hệ cao đẳng nghề dao động 2–3 triệu đồng/tháng, là gánh nặng lớn với nhiều gia đình. Chính phủ nên hỗ trợ học phí toàn phần để thu hút người học. Bên cạnh đó, doanh nghiệp phải đồng hành nhiều hơn, từ định hướng, hỗ trợ chỗ ở đến cam kết việc làm, để tạo nền tảng bền vững cho đào tạo nghề.
Có thể thấy, đào tạo nghề và phát triển nhân lực sẽ quyết định thành công của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Khi chính sách, đầu tư và chiến lược đào tạo được triển khai bài bản, nguồn nhân lực sẽ trở thành “lợi thế cạnh tranh” thay thế cho mô hình tăng trưởng dựa vào lao động giá rẻ, để Việt Nam bước vào giai đoạn tăng trưởng bền vững.
















