Trái phiếu doanh nghiệp hút tiền ngân hàng và chứng khoán

|
Số liệu được đưa ra trong báo cáo chuyên biệt về “Thị trường Trái phiếu doanh nghiệp” vừa được Công ty CP Chứng khoán SSI (SSI) công bố cho biết, dù lượng phát hành TPDN đã giảm nhiệt trong quý III/2021, tuy nhiên vẫn ở mức cao so với trung bình các năm trước.
Cụ thể, trong quý III/2021, các doanh nghiệp phát hành 188 nghìn tỷ đồng trái phiếu, giảm 4,1% so với quý II/2021 và giảm 17% so với cùng kỳ giữa bối cảnh dịch bệnh bùng phát mạnh mẽ và giãn cách xã hội tác động đến kế hoạch phát hành của doanh nghiệp.
Bất động sản (BĐS) và ngân hàng tiếp tục duy trì là 2 tổ chức phát hành chiếm tỷ trọng nhiều nhất trong quý III/2021, lên tới 80% tổng lượng phát hành. Trong đó, nhóm doanh nghiệp bất động sản phát hành tổng cộng 85 nghìn tỷ đồng (giảm nhẹ - 2,7% so với cùng kỳ và chiếm 45% tổng lượng phát hành trong quý).
Điểm đáng chú ý, trong quý III/2021 là các ngân hàng tích cực phát hành trái phiếu với tổng giá trị là 65,2 nghìn tỷ đồng, tăng 37,9% so với cùng kỳ nhằm tăng vốn cấp 2 và bổ sung thêm nguồn vốn trung hạn. Nếu loại trừ trái phiếu ngân hàng, tổng lượng TPDN phát hành quý III/2021 là 123 nghìn tỷ đồng, giảm 17% so với cùng kỳ năm 2020.
Tính chung 9 tháng năm 2021, tổng lượng TPDN phát hành là 443,1 nghìn tỷ đồng, tăng 18,6% so với cùng kỳ 2020.
Quán quân phát hành vẫn là các doanh nghiệp BĐS (201,9 nghìn tỷ đồng – chiếm 45,5%); sau đó đến các ngân hàng (136,4 nghìn tỷ đồng – chiếm 30,8%); năng lượng và khoáng sản (21,9 nghìn tỷ - chiếm 5,0%); định chế tài chính phi ngân hàng (20,9 nghìn tỷ đồng – chiếm 4,7%); phát triển hạ tầng (17,5 nghìn tỷ - chiếm 3,9%); và các doanh nghiệp khác.
Động lực từ mặt bằng lãi suất thấp
Phân tích từ SSI cho thấy, mặt bằng lãi suất ở mức thấp là động lực chính khiến các doanh nghiệp tích cực đẩy mạnh phát hành TPDN để có thể huy động vốn được nhanh chóng và giảm áp lực lên chi phí tài chính, khi mặt bằng lãi suất cho vay từ ngân hàng không có mức giảm tương ứng.
|
Theo đó, lãi suất phát hành bình quân của các TPDN (loại trừ trái phiếu ngân hàng) trong quý III/2021 là 9,3%/năm - giảm 1,1%/năm so với cuối năm 2020; trong khi đó mặt bằng lãi suất cho vay chỉ giảm khoảng 0,6-0,7%/năm trong cùng giai đoạn.
Việc huy động vốn thông qua kênh trái phiếu cũng giúp các doanh nghiệp chủ động hơn cho nguồn vốn vay trung và dài hạn với khối lượng lớn. So với phương thức truyền thống là tín dụng từ NHTM, phát hành trái phiếu mang lại cho DN nhiều ưu điểm như không cần thế chấp tài sản và được chủ động trong việc sử dụng số tiền huy động.
Trong khi đó, điều kiện và thủ tục vay vốn qua ngân hàng phức tạp hơn và khoản vay có giới hạn nhất định do các quy định kiểm soát chặt chẽ hơn từ NHNN (hệ số rủi ro cho vay bất động sản, chứng khoán tăng, tỷ lệ LDR, tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn giảm).
Báo cáo của SSI cho biết, nhu cầu của các nhà đầu tư này vẫn duy trì tích cực khi chênh lệch giữa lãi suất phát hành TPDN và lãi suất tiền gửi giữ ở mức cao. “Chênh lệch giữa lãi suất TPDN (loại trừ ngân hàng) với lãi suất tiền gửi bình quân lên tới 4%/năm, cho thấy dư địa dòng tiền cá nhân tìm đến những tài sản đầu tư tài chính như TPDN vẫn còn rất lớn”, SSI nhận định.
Đánh giá về chất lượng tài sản bảo đảm cho trái phiếu, SSI cho rằng, chất lượng tài sản vẫn còn nhiều hạn chế. Loại trừ các trái phiếu ngân hàng và định chế tài chính khác khi hầu hết phát hành đều không có tài sản đảm bảo, các TPDN còn lại được phát hành trong 9 tháng đầu năm 2021 có 36,2% được đảm bảo bằng một phần tài sản/bất động sản và một phần là cổ phiếu/cổ phần, 20,4% được bảo đảm bằng BĐS; 9,5% được đảm bảo bằng tài sản; 6,7% được đảm bảo hoàn toàn bằng cổ phiếu và 17,1% là không có tài sản đảm bảo.
“Chúng tôi lưu ý rằng việc đảm bảo nghĩa vụ thanh toán nợ gốc lãi trái phiếu bằng cổ phiếu không có nhiều ý nghĩa vì khi sự kiện vi phạm xảy ra, doanh nghiệp mất khả năng thanh toán thì giá trị cổ phiếu dùng làm tài sản đảm bảo (thường là của tổ chức phát hành hoặc liên quan đến tổ chức phát hành) cũng sẽ sụt giảm nghiêm trọng”, các chuyên gia của SSI lưu ý.
Ngân hàng, chứng khoán tiếp tục là nhà đầu tư chính
Trong báo cáo, SSI cho biết, cơ cấu mua trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường sơ cấp chủ yếu thuộc về ngân hàng, công ty chứng khoán và một số lượng nhỏ các nhà đầu tư cá nhân.
Sau khi Nghị định số 153/2020/NĐ-CP có hiệu lực, trong đó quy định điều kiện nhà đầu tư trái phiếu doanh nghiệp phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, tỷ trọng các nhà đầu tư cá nhân đã giảm mạnh trong 9 tháng năm 2021.
Thống kê cho thấy, cá nhân trong và ngoài nước đã mua gần 22 nghìn tỷ đồng trên thị trường sơ cấp chỉ chiếm khoảng 5% tổng lượng phát hành và giảm gần 50% so với cùng kỳ năm 2020. Các nhà đầu tư cá nhân tập trung vào nhóm phát hành có lãi suất cao như trái phiếu BĐS hoặc có thời gian đáo hạn ngắn như trái phiếu từ các định chế tài chính phi ngân hàng.
|
“Có tới gần 60% lượng TPDN phát hành là do các ngân hàng và công ty chứng khoán nắm giữ”, SSI nhấn mạnh. Cụ thể, các NHTM mua vào 124,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 27,3%; các công ty chứng khoán mua 148,4 nghìn tỷ đồng, chiếm 32,6%. Chỉ một số ít trái phiếu được các ngân hàng bảo lãnh thanh toán, phần lớn số trái phiếu phát hành chỉ được bảo lãnh phát hành, tức ngân hàng và các công ty chứng khoán sẽ cam kết mua toàn bộ số trái phiếu còn lại trong trường hợp không phát hành hết.
Theo SSI, trái phiếu BĐS luôn là tâm điểm chú ý trong thị trường TPDN sơ cấp với mức lãi suất phát hành luôn duy trì hấp dẫn nhằm thu hút nhà đầu tư.
Trong quý III/2021, các doanh nghiệp BĐS tiếp tục duy trì vị thế dẫn đầu khi phát hành 85,5 nghìn tỷ đồng trái phiếu, giảm khoảng 4% so với quý II/2021 và cùng kỳ năm 2020. Đặc biệt, sự kiện “Evergrande” cũng không làm thị trường trái phiếu BĐS kém sôi động hơn khi chỉ tính riêng trong tháng 9/2021, tổng giá trị TP BĐS phát hành là 30,4 nghìn tỷ đồng – chiếm 36% tổng lượng phát hành trong Quý.
Tính chung 9 tháng năm 2021, các doanh nghiệp BĐS phát hành 201 nghìn tỷ đồng trái phiếu với lãi suất bình quân là 10,36%/năm, thấp hơn 30 điểm cơ bản so với bình quân năm 2020 và kỳ hạn bình quân ở mức 3,8 năm. Nhìn chung, kỳ hạn bình quân của trái phiếu BĐS trong 2 năm gần đây là khoảng 3,5 - 4 năm, do vậy áp lực trả nợ gốc sẽ tăng dần trong giai đoạn 2023 – 2025.
Trong quý III/2021, khối lượng trái phiếu ngân hàng phát hành thành công đạt 65,2 nghìn tỷ đồng, giảm 6,8% so với quý II/2021 nhưng tăng tới 37,9% so với cùng kỳ. Tính chung 9 tháng năm 2021, có 20 NHTM phát hành 136,4 nghìn tỷ đồng (tăng 42,6% so với cùng kỳ) trái phiếu với kỳ hạn bình quân 4,13 năm và lãi suất bình quân 4,5%/năm.
“Nhu cầu các NHTM cần tăng vốn cấp 2 nhằm đáp ứng Basel II và bổ sung nguồn vốn trung hạn (hỗ trợ hoạt động kinh doanh và đáp ứng thông tư quy định về tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn) tăng trong giai đoạn qua giúp thị trường trái phiếu ngân hàng sôi động”, SSI nhận định.
Thị trường sẽ kém sôi động hơn trong quý IV/2021?
Dự báo thị trường quý IV/2021, SSI kỳ vọng, thị trường sẽ kém sôi động khi sau "sự kiện Evergrande”, Bộ Tài chính đã thực hiện một số biện pháp kiểm tra mạnh tay hơn nhằm giám sát thị trường TDPN.
Cụ thể, Bộ Tài chính đã chỉ đạo kiểm tra trong tháng 10/2021 tại 10 công ty chứng khoán về tình hình cung cấp dịch vụ về trái phiếu doanh nghiệp, trong bối cảnh thị trường thời gian gần đây xuất hiện hiện tượng các nhà đầu tư “lách” các quy định của pháp luật để trở thành nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp với mục đích để mua trái phiếu doanh nghiệp riêng lẻ thông qua phân phối của công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại mà chưa nắm rõ tình hình tài chính của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, Bộ Tài chính cũng rà soát lại một số doanh nghiệp có khối lượng phát hành trái phiếu lớn; phát hành trái phiếu không có tài sản đảm bảo; tình hình tài chính yếu nhằm hạn chế tối đa nguy cơ vỡ nợ trên thị trường.
Không chỉ vậy, Bộ Tài chính cũng vừa công bố dự thảo Thông tư nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn hoạt động phát hành TPDN. Trong đó, đối với hoạt động phát hành TPDN riêng lẻ, điều khoản đáng chú ý nhất là việc quy định trái phiếu của công ty không phải công ty đại chúng phải có tài sản bảo đảm hoặc bảo đảm thanh toán toàn bộ gốc, lãi khi đến hạn.
Trong thời gian qua, các loại TPDN được phát hành tại Việt Nam đều chưa được xếp hạng tín nhiệm, nhiều loại không tài sản bảo đảm, không bảo lãnh thanh toán; một số doanh nghiệp công bố huy động vốn với lãi suất cao nhưng không có phương án kinh doanh khả thi rõ ràng. Do vậy, không đảm bảo cho khả năng trả nợ gốc và lãi sau này.
“Trong ngắn hạn, rủi ro vỡ nợ đến từ các doanh nghiệp này là chưa nhiều khi thời điểm đáo hạn sẽ rơi nhiều vào năm 2023 - 2024, tuy nhiên dịch bệnh diễn biến phức tạp như hiện tại sẽ đẩy nhanh nguy cơ vỡ nợ từ các doanh nghiệp này, khi không thể kiểm soát được dòng tiền khiến dòng tiền bị mất cân đối”, SSI nhận định.
Tin tức khác
T1 và “Quỷ vương” Faker đến Việt Nam trong Lễ hội eSports của VPBank
Giải ngân gần 1.500 tỷ đồng cho vay để khôi phục sản xuất kinh doanh
Công đoàn BIDV tổ chức thành công Đại hội đại biểu lần thứ VII, nhiệm kỳ 2025 - 2030
Eximbank kiện toàn lãnh đạo cấp cao với tân nữ Chủ tịch
Thanh toán một chạm tại Metro bằng tài khoản VPBank
Tập đoàn Bảo Việt: 10 năm liên tiếp được vinh danh Top 10 Doanh nghiệp bền vững nhất Việt Nam
BIDV nhận giải Báo cáo thường niên tốt nhất lần thứ 3 liên tiếp
MultiMedia
Podcast An sinh tổng hợp tuần 1 tháng 12/2025
VIDEO: “Ấm lòng” từ Nghị quyết 56/2025/NQ-HĐND đến với người cao tuổi TP. Hồ Chí Minh được hỗ trợ BHYT
VIDEO: Bổ sung 41 cửa khẩu quốc tế cho phép xuất nhập cảnh bằng thị thực điện tử
Xây dựng mô hình tăng trưởng mới dựa trên trí thức và công nghệ
EMAGAZINE: Kiến tạo động lực mới cho tăng trưởng dài hạn
EMAGAZINE: Kiến tạo động lực mới cho tăng trưởng dài hạn
Đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công những tháng cuối năm 2025
Khôi phục cấp điện hoàn toàn cho Phú Quốc
Đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài tăng trưởng đột phá
Vốn FDI thực hiện 11 tháng đạt mức cao nhất trong vòng 5 năm qua
Giữ vững đà tăng trưởng, đảm bảo an sinh xã hội
Cần xác định nhiệm vụ trọng tâm để thúc đẩy tăng trưởng
Vinh danh doanh nghiệp bền vững cùng hành trình CSI bồi đắp nội lực doanh nghiệp Việt
Sửa Luật Thuế Giá trị gia tăng nhằm gỡ vướng thực tiễn, hỗ trợ doanh nghiệp, người dân
Giải pháp đột phá giúp hiện thực hoá mục tiêu tăng trưởng cao của 3 “thành phố động lực”
26,343 tỷ đồng vốn viện trợ được kiến nghị bổ sung vào chi thường xuyên ngân sách 2025
Đề xuất mở rộng cơ chế đặc thù giải quyết vướng mắc các dự án, đất đai trên toàn quốc
Trình Quốc hội loạt cơ chế đặc thù để triển khai các dự án lớn tại Thủ đô
Công nghiệp An Giang duy trì đà tăng trưởng, tiếp tục là động lực kinh tế chủ lực
Sửa Luật Thuế giá trị gia tăng: Giảm thủ tục, hỗ trợ sản xuất nông nghiệp










