Tăng trưởng hai con số: Cần kiến tạo động lực mới trong kỷ nguyên số và xanh
Việt Nam đang đứng trước một giai đoạn phát triển có tính bản lề, khi mục tiêu tăng trưởng kinh tế hai con số trong giai đoạn 2026-2030 được đặt ra như một khát vọng lớn lao; đồng thời cũng là thước đo bản lĩnh, tầm nhìn và năng lực quản trị kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, để đạt được cột mốc đầy tham vọng này, các chuyên gia kinh tế cho rằng, Việt Nam không thể tiếp tục dựa vào những động lực truyền thống như khai thác tài nguyên hay lao động giá rẻ, vốn đã dần bộc lộ nhiều giới hạn.

Cần chú trọng vào những động lực mới
Chia sẻ tại Hội thảo Kinh tế 2025 với chủ đề “Động lực cho tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong kỷ nguyên mới”, diễn ra ngày 16/9 tại Hà Nội, ông Nguyễn Đức Hiển - Phó Trưởng ban Chính sách, chiến lược Trung ương cho rằng, tăng trưởng bền vững phải dựa vào những động lực mới phù hợp với bối cảnh toàn cầu. Chỉ khi đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, công nghiệp hóa - hiện đại hóa, phát triển khoa học công nghệ và nâng cao chất lượng nhân lực, Việt Nam mới có thể bứt phá.
Theo ông Hiển, bức tranh phát triển hiện nay đòi hỏi Việt Nam nhanh chóng hòa nhập vào kỷ nguyên số và kỷ nguyên xanh. Các quốc gia đang tái cấu trúc mô hình tăng trưởng, ưu tiên năng lượng sạch, công nghệ cao và quản trị hiện đại. Trong khi đó, nếu Việt Nam tiếp tục dựa vào các động lực truyền thống, dư địa phát triển sẽ nhanh chóng cạn kiệt. Do đó, lựa chọn con đường đổi mới, sáng tạo và bền vững là tất yếu, không thể trì hoãn thêm.
Cùng quan điểm, TS. Phạm Anh Tuấn - Phó Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam nhận định, thế giới đang thay đổi sâu sắc. Quá trình tái cấu trúc chuỗi cung ứng, già hóa dân số, biến đổi khí hậu và sự nổi lên của công nghệ số đã tạo ra một trật tự kinh tế toàn cầu mới. Ở trong nước, những hạn chế cũ ngày càng lộ rõ: Năng suất lao động tăng chậm, thể chế chưa đồng bộ, dư địa chính sách tiền tệ - tài khóa thu hẹp, khiến tăng trưởng theo cách truyền thống ngày càng thiếu bền vững.
Để đối phó với bối cảnh đó, TS. Phạm Anh Tuấn cho rằng, Việt Nam cần 3 động lực then chốt, đó là: Thứ nhất, thu hút và thúc đẩy đầu tư tư nhân chất lượng cao. Thứ hai, khai thác hiệu quả các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA để mở rộng thị trường và nâng cao sức cạnh tranh. Thứ ba, gắn kết dòng vốn đầu tư nước ngoài với công nghệ cao, chuyển đổi số và phát triển năng lượng bền vững nhằm tạo sức bật lâu dài.
Trong cuộc họp với Thủ tướng Phạm Minh Chính mới đây, Hội đồng Tư vấn chính sách đã nhận định rằng, so với Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc đại lục hay Đài Loan ở giai đoạn tăng trưởng thần kỳ, mục tiêu tăng GDP 8,3-8,5% năm 2025 và đạt hai con số giai đoạn 2026-2030 của Việt Nam là phù hợp. Đặc biệt, theo Hội đồng, các động lực mới từ cải cách thể chế, chống lãng phí, cải thiện môi trường kinh doanh, tăng chi cho nghiên cứu - phát triển, cùng với chuyển đổi xanh và số, đột phá khoa học công nghệ có thể giúp GDP tăng thêm 1-1,5 điểm phần trăm.
Tăng trưởng phải gắn với hạnh phúc và an sinh xã hội
Một thách thức lớn khác được TS. Nguyễn Quỳnh Trang - Trường Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) chỉ ra là chất lượng nguồn nhân lực. Dù tỷ lệ lao động qua đào tạo của Việt Nam đã tăng từ 14% năm 2010 lên hơn 28% năm 2024, song mức đóng góp vào tăng trưởng GDP vẫn khiêm tốn. Nhiều lao động chưa đáp ứng được yêu cầu về kỹ năng số, trí tuệ nhân tạo hay năng lực quản trị. Đây là rào cản lớn khi đất nước muốn bước vào nền kinh tế tri thức.
Theo TS. Nguyễn Quỳnh Trang, các hạn chế không chỉ đến từ phía lao động, mà còn từ cấu trúc kinh tế. Máy móc, thiết bị trong nhiều ngành còn lạc hậu, hiệu quả sử dụng vốn thấp, trong khi khu vực tư nhân chưa hình thành những tập đoàn đủ sức cạnh tranh quốc tế. Quá trình đổi mới sáng tạo vẫn diễn ra chậm, chưa tạo thành dòng chảy mạnh mẽ. Nếu không sớm cải thiện, Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội tận dụng làn sóng công nghệ mới và quá trình chuyển dịch chuỗi cung ứng toàn cầu.
Để khắc phục, TS. Trang đề xuất nhiều giải pháp như: Gỡ bỏ rào cản thể chế, tạo môi trường cạnh tranh công bằng; hỗ trợ mạnh mẽ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ; đồng thời cần thúc đẩy sự ra đời của các doanh nghiệp đầu đàn có khả năng vươn ra toàn cầu. Song song với đó, phải hiện đại hóa sản xuất thông qua đầu tư vào máy móc, công nghệ cao và ứng dụng chuyển đổi số. Những biện pháp này sẽ giúp tăng năng suất, giảm chi phí, đồng thời nâng cao vị thế doanh nghiệp Việt Nam.
Một ưu tiên nữa là phát triển hạ tầng chiến lược, đặc biệt là hệ thống giao thông liên vùng, logistics và năng lượng sạch. Đây là điều kiện để giảm chi phí vận chuyển, kết nối hiệu quả các trung tâm kinh tế, đồng thời thúc đẩy tính bền vững trong phát triển. Việt Nam không thể hướng tới tăng trưởng nhanh nếu thiếu nền tảng hạ tầng hiện đại và đồng bộ. Đầu tư cho hạ tầng cũng chính là đầu tư cho năng lực cạnh tranh dài hạn của nền kinh tế.
Trong khi đó, GS. Trần Văn Thọ (Đại học Waseda, Nhật Bản) cho biết, trong 35 năm qua, Việt Nam tăng trưởng trung bình 6,5%, nhưng chưa từng có giai đoạn đạt mức hai con số kéo dài như Nhật Bản, Hàn Quốc hay Trung Quốc. Vì vậy, GS. Thọ đề xuất Việt Nam cần tạo cơ chế để doanh nghiệp lớn cùng chia sẻ tầm nhìn dài hạn với Nhà nước, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, mở rộng quy mô sản xuất - xuất khẩu, phát triển ngành mới và công nghiệp hỗ trợ nhằm tạo động lực tăng trưởng bền vững.
Theo GS. Trần Văn Thọ, quyết tâm cải cách thể chế hiện nay là cơ hội để Việt Nam đạt tốc độ cao hơn trong tương lai. Tuy nhiên, tăng trưởng phải gắn với hạnh phúc người dân, thông qua việc toàn dụng lao động, phổ cập giáo dục miễn phí đến trung học và đầu tư y tế. Ông cũng nhấn mạnh cần xây dựng chế độ lương hưu, bảo hiểm thất nghiệp để đảm bảo an sinh xã hội và củng cố niềm tin vào tương lai.