Xóa đói – giảm nghèo: Thúc đẩy bình đẳng, tiến bộ và hội nhập cho đồng bảo thiểu số
Việt Nam có 53 dân tộc thiểu số với dân số trên 14,4 triệu người, chiếm khoảng 14,6% dân số cả nước, sinh sống chủ yếu ở vùng miền núi, chiếm 3/4 diện tích cả nước, dân số khoảng 14,1 triệu người, chiếm 14,7% dân số cả nước. Các chính sách đối với đồng bào dân tộc thiểu số trong quá trình phát triển bền vững và công bằng xã hội ở Việt Nam nhằm hướng tới bình đẳng, tiến bộ và hội nhập cho đồng bào thiểu số cần được chú trọng và thực thi hiệu quả hơn.

Đánh giá thành quả xóa đói – giảm nghèo
Việt Nam là một trong 30 quốc gia đầu tiên trên thế giới và là quốc gia duy nhất ở châu Á thực hiện chương trình giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững. Theo Báo cáo nghèo đa chiều 2021, năm 1993, tỷ lệ hộ nghèo cả nước là 58,1% giảm còn 2,23% năm 2021.
Đến cuối năm 2025, dự kiến tỷ lệ hộ nghèo toàn quốc dưới 1,5%, và tỷ lệ hộ nghèo dân tộc thiểu số đã giảm mạnh nhờ Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững. Với kết quả trên, Việt Nam đã hoàn thành sớm mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên Hợp quốc về xóa đói, giảm nghèo.
Để đạt được thành quả đó, Việt Nam đã thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chính sách, bao gồm cả chính sách liên quan đến các dân tộc thiểu số chặt chẽ và xuyên suốt.
Từ xây dựng các chủ trương, định hướng chính sách thuộc trách nhiệm của Đảng, Nhà nước sau đó tổ chức thực hiện bằng cách ban hành các văn bản pháp luật, từ luật đến văn bản hướng dẫn thi hành, tạo thành cơ chế, chính sách.
Dựa trên các văn bản của chính quyền Trung ương, chính quyền địa phương, các ngành và lĩnh vực thực hiện và đảm bảo thực thi các chính sách này.
Chính sách liên quan đến xóa đói giảm nghèo luôn được xác định là nền tảng quan trọng, điển hình: Quyết định số 1719/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030.
Nghị định số 22/2021/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ ký ban hành ngày 19/3/2021 về khu kinh tế - quốc phòng, trong đó quy định Quân đội tiếp tục xây dựng các khu kinh tế - quốc phòng trên các địa bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, biển đảo mục tiêu là tiếp tục giúp dân xóa đói, giảm nghèo bền vững.
Thể hiện quyết tâm của Nhà nước trong việc thúc đẩy phát triển bền vững, cải thiện toàn diện đời sống người dân, hướng tới sự phát triển cân bằng và công bằng trên mọi miền đất nước
Kết quả thực hiện xóa đói giảm nghèo ở các vùng dân tộc thiểu số đến năm 2025 cho thấy nhiều thành tựu tích cực, với nhiều chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch, kinh tế hộ nghèo dân tộc thiểu số được cải thiện đáng kể, dù đối mặt với thiên tai và biến động kinh tế toàn cầu. Kết quả đầu tư và tỷ lệ giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số đã đạt được những thành quả nhất định (Bảng).
Bảng: Giá trị đầu tư của ngân sách và tỷ lệ giảm nghèo
Nguồn: Tổng hợp
Ngày 13/8/2025, tại Hội nghị toàn quốc tổng kết Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2025 và định hướng nội dung giai đoạn 2026-2030, đã ghi nhận được nhiều kết quả, hỗ trợ: đất ở cho 10.549 hộ, nhà ở cho 42.567 hộ, chuyển đổi nghề cho 54.899 hộ, nước sinh hoạt phân tán cho 479.358 hộ…
Kết quả thực hiện 9 nhóm mục tiêu của Chương trình, có 6 nhóm cơ bản đạt và vượt kế hoạch đề ra. Mục tiêu về tỷ lệ giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc thiểu số đạt bình quân 3,4%, dự kiến cả giai đoạn đạt 3,2% (vượt mục tiêu kế hoạch giao); mục tiêu thu nhập của người dân tộc thiểu số đạt bình quân 43,4 triệu đồng, tăng 3,1 lần so với năm 2020.
Công bằng, đoàn kết và hội nhập cho đồng bào dân tộc thiểu số
Xóa đói - giảm nghèo nhanh và bền vững đóng vai trò quan trọng, là cơ sở để thúc đẩy bình đẳng, tiến bộ và hội nhập cho đồng bào dân tộc thiểu số. Bảo đảm công bằng xã hội, tăng cường đoàn kết và hội nhập đồng bào dân tộc thiểu số được thể hiện ở những nội dung chủ yếu:
Một là, các dân tộc được coi là một phần của đại gia đình dân tộc với triết lý chỉ đạo là bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, hợp tác để cùng nhau phát triển.
Đầu tư vào chính sách phát triển đồng bào dân tộc thiểu số là đầu tư cho tăng trưởng kinh tế - xã hội bền vững, công bằng và toàn diện. Việc đạt được một xã hội an toàn, ổn định và phát triển như ngày nay là kết quả của những nỗ lực không ngừng của Chính phủ trong việc đầu tư vào mọi mặt của vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Hai là, mục tiêu cốt lõi của các chính sách dân tộc thiểu số là xóa đói, giảm nghèo và nâng cao đời sống của cộng đồng các dân tộc thiểu số, tập trung vào các vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
Hỗ trợ tập trung vào các dân tộc nghèo và các cộng đồng đặc biệt khó khăn bằng cách giải quyết các vấn đề cấp bách như thiếu lương thực, thiếu nước sạch, nhà ở tạm bợ, thiếu tư liệu sản xuất và nhu cầu sinh hoạt tối thiểu.
Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng được thực hiện ở các vùng biên giới, vùng sâu, vùng xa và các vùng đặc biệt khó khăn. Xây dựng và triển khai các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng biên giới, trên cơ sở đại đoàn kết toàn dân tộc.
Ba là, giúp đỡ, hỗ trợ, hợp tác cùng nhau phát triển giữa các dân tộc là nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc của Việt Nam.
Cải thiện mức sống, nâng cao tỷ lệ biết chữ, giảm nghèo, nâng cao chất lượng giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân tộc thiểu số tại Việt Nam đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Nhà nước luôn kêu gọi và huy động các nguồn lực từ cả trong nước và quốc tế để hỗ trợ phát triển các vùng miền núi và vùng dân tộc thiểu số.
Ngoài ra, các chính sách do chính quyền địa phương và các ngành ban hành, các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp tư nhân, tổ chức phi lợi nhuận... hiện cũng đóng vai trò quan trọng.
Kết quả xóa đói - giảm nghèo ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số có nhiều chuyển biến tích cực, thể hiện qua tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể, thu nhập bình quân của hộ nghèo tăng lên, góp phần cải thiện đời sống và thay đổi diện mạo nông thôn miền núi.
Kiên định tiếp tục thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo
Thành công của chính sách xóa đói, giảm nghèo giai đoạn vừa qua đã phần nào làm giảm bớt những rủi ro và nguy cơ đói nghèo cho người dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Đồng bào dân tộc thiểu số có nhiều cơ hội nâng cao trình độ học vấn, tiếp cận với việc làm, ổn định cuộc sống.
Tuy nhiên, vẫn còn những hạn chế như tình trạng tái nghèo, cận nghèo cao, chất lượng giáo dục, y tế chưa đáp ứng yêu cầu, đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa, cùng với tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng và người dân tham gia bảo hiểm xã hội, y tế còn thấp.
Nghèo đói vẫn là một trong những vấn đề quan trọng mà Chính phủ cần tập trung giải quyết, cụ thể: cần thực hiện các giải pháp tập trung vào nâng cao nhận thức qua tuyên truyền, tăng cường cơ hội tiếp cận dịch vụ công (giáo dục, y tế, văn hóa) cho phụ nữ và người dân.
Phát huy vai trò của cộng đồng thông qua già làng, trưởng bản và các tổ chức xã hội, đầu tư vào hạ tầng; kinh tế-xã hội gắn với khoa học công nghệ và chuyển đổi số, đồng thời xây dựng chính sách phát triển toàn diện, bao gồm cả an sinh xã hội, bảo tồn văn hóa và ứng phó biến đổi khí hậu.
Nghèo đói có liên hệ chặt chẽ với các mối đe dọa làm gia tăng bất bình đẳng toàn cầu, điển hình là cơn bão Yagi năm 2024 đã gây thiệt hại nặng nề về người và tài sản, làm gia tăng rủi ro và tính dễ bị tổn thương của người nghèo, đồng thời tác động tiêu cực đến công cuộc giảm nghèo ở Việt Nam.
Do đó, việc ưu tiên và khẩn trương thực hiện các chính sách cải thiện sinh kế, đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số là rất quan trọng để tạo nền tảng vững chắc, góp phần hiện thực hóa mục tiêu bình đẳng, tiến bộ và hội nhập cho đồng bảo thiểu số.
Việt Nam là một quốc gia năng động có thu nhập trung bình thấp, đang đối mặt với nhiều thách thức để đạt được mục tiêu trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và quốc gia có thu nhập cao vào năm 2045.
Trong bối cảnh chuyển đổi kinh tế - xã hội, Việt Nam cần phải có những bước đi kiên định và vững chắc đảm bảo mục tiêu xóa đói – giảm nghèo và hướng đến công bằng, bình đẳng thúc đẩy tiến bộ và hội nhập cho đồng bảo thiểu số.