Vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn cần sự ưu tiên đầu tư giảm nghèo

Trang Nguyễn

Trong tiến trình phát triển đất nước, công tác giảm nghèo luôn được Đảng và Nhà nước xác định là nhiệm vụ trọng tâm, vừa mang tính cấp bách, vừa có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Thành tựu giảm nghèo của Việt Nam trong những thập kỷ qua đã được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đưa hàng chục triệu người thoát khỏi cảnh nghèo đói, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo đảm an sinh xã hội.

Chương trình giảm nghèo bền vững: Vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn cần sự ưu tiên đầu tư giảm nghèo
Chương trình giảm nghèo bền vững: Vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn cần sự ưu tiên đầu tư giảm nghèo

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, công tác giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa vẫn còn không ít hạn chế. Nguồn lực đầu tư chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, còn dàn trải, thiếu bền vững. Một số chính sách chồng chéo, thiếu đồng bộ, chưa tạo động lực đủ mạnh để người dân tự vươn lên thoát nghèo. Tư duy trông chờ, ỷ lại vào nguồn kinh phí hỗ trợ của Nhà nước vẫn tồn tại ở một bộ phận hộ nghèo. Do đó, khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền vẫn còn lớn, trong đó vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và những địa bàn đặc biệt khó khăn vẫn là những “vũng trũng” cần được ưu tiên đầu tư để giảm nghèo, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay phải hướng tới giảm nghèo bền vững.

Thực trạng nghèo đói, khó khăn ở vùng sâu, vùng xa

Địa hình Việt Nam có trung du, đồi núi, trong 54 dân tộc, có 53 dân tộc thiểu số, đa phần sinh sống tại vùng núi, vùng biên giới, hải đảo, nơi điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, địa hình hiểm trở,… Đây cũng chính là trở ngại lớn khiến các vùng sâu, xa, miền núi, hải đảo còn hạn chế về cơ sở hạ tầng. Bên cạnh các nguyên nhân từ thiệt thòi trong đầu tư, đây cũng là những địa bàn thường xuyên chịu ảnh hưởng nặng nề của thiên tai, biến đổi khí hậu, các chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng liên tục bị thiên tai làm hư hỏng, khiến tổng đầu tư gia tăng, gây khó khăn cho các địa phương trong phân bổ nguồn lực đầu tư, dù đã có những ưu tiên. Ở không ít nơi, khi hạ tầng vừa được hoàn thiện, khi nhà dân vừa được hỗ trợ xây dựng xong thì bão, lũ đỏ về xóa sạch thành quả.

Nguồn sinh kế của người dân chủ yếu dựa vào nông nghiệp, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, năng suất thấp. Do thiếu đất canh tác, thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, vòng luẩn quẩn “nghèo đói - lạc hậu - tái nghèo” vẫn đeo bám dai dẳng.

Trước thực trạng đó, chương trình giảm nghèo trở thành cứu cánh cho bà con, nhất là sau những đợt thiên tai, bão lũ. Thực tế cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi vẫn cao hơn so với mức trung bình cả nước. Theo số liệu từ Ủy ban Dân tộc (nay là Bộ Tôn giáo và Dân tộc), đến hết năm 2024, tỷ lệ hộ nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số vẫn trên 20%, trong khi mức trung bình cả nước chỉ còn khoảng 2,9%. Sự chênh lệch này phản ánh rõ khoảng cách phát triển và cho thấy những thách thức to lớn trong công tác giảm nghèo ở những địa bàn đặc biệt khó khăn.

Thiếu thốn về vật chất, hạn chế về hạ tầng cơ sở, đồng bào vùng sâu, vùng xa chịu thiệt thòi về tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như y tế, giáo dục, nước sạch, vệ sinh môi trường. Trẻ em vùng núi có nguy cơ bỏ học cao, chưa được chăm sóc y tế, do nhà xa trường, xa bệnh viện, đường đi hiểm trở, chi phí học tập lớn. Tình trạng suy dinh dưỡng, tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống vẫn tồn tại, làm hạn chế sự phát triển toàn diện của thế hệ trẻ. Đó là những rào cản vô hình khiến khoảng cách nghèo ngày càng khó thu hẹp.

Ngoài ra, việc tạo sinh kế bền vững cho người dân vùng núi vẫn là thách thức lớn. Sản xuất nông - lâm nghiệp thường phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, dễ bị tác động bởi biến đổi khí hậu, dịch bệnh. Liên kết thị trường còn yếu, đầu ra sản phẩm bấp bênh. Đây chính là nguyên nhân khiến nhiều hộ dù đã thoát nghèo nhưng vẫn dễ tái nghèo.

Dân tộc thiểu số, đa phần sinh sống tại vùng núi, vùng biên giới, hải đảo, nơi điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, địa hình hiểm trở,…
Dân tộc thiểu số, đa phần sinh sống tại vùng núi, vùng biên giới, hải đảo, nơi điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, địa hình hiểm trở,…

Ưu tiên đầu tư cho vùng khó khăn hướng tới phát triển đồng đều các khu vực, vùng, miền

Giảm nghèo cho người dân vùng sâu, xa, vùng khó khăn là nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm. Giảm nghèo không chỉ đơn thuần là hỗ trợ về kinh tế mà còn là bảo đảm công bằng xã hội. Ưu tiên đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn chính là thực hiện chủ trương “không để ai bị bỏ lại phía sau” trong tiến trình phát triển. Đây là khu vực nghèo nhất, dễ tổn thương nhất. Nếu không có sự ưu tiên, hỗ trợ mạnh mẽ, người dân sẽ rất khó tự thoát nghèo, nguy cơ tái nghèo luôn rình rập.

Trong bối cảnh cả nước thực hiện sáp nhập các tỉnh, thành phố, từng khu vực, địa bàn vùng sâu, xa, miền núi, vùng khó khăn đều được quan tâm, chủ động, được các địa phương cùng chia sẻ, hỗ trợ trong thời gian tới, giúp các khu vực vùng sâu, xa, khó khăn sẽ có cơ hội phát triển.

Vùng sâu, vùng xa thường gắn liền với biên giới, hải đảo - những địa bàn có ý nghĩa chiến lược về quốc phòng, an ninh. Đầu tư giảm nghèo ở đây không chỉ là chính sách an sinh, còn góp phần phát triển kinh tế thương mại vùng biên.

Ưu tiên đầu tư cho vùng khó khăn cũng là cách để bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa đa dạng của cộng đồng các dân tộc anh em. Khi đời sống người dân được cải thiện, các giá trị văn hóa truyền thống mới có điều kiện được giữ gìn, phát triển trong bối cảnh hội nhập.

Giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn không chỉ là trách nhiệm kinh tế - xã hội và nhân văn sâu sắc. Đây là khu vực cần sự ưu tiên, tập trung đầu tư nhiều hơn để bảo đảm công bằng, củng cố niềm tin của nhân dân, giữ vững ổn định và phát triển đất nước. Khi người dân nơi biên cương, hải đảo, miền núi được thoát nghèo, họ sẽ góp phần làm giàu cho quê hương. Vì thế, đầu tư cho giảm nghèo ở vùng khó khăn chính là đầu tư cho tương lai, cho sự phát triển thịnh vượng và bền vững của Việt Nam.

Ưu tiên đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
Ưu tiên đầu tư cho vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó