Thể chế, vốn và hạ tầng số: Ba trụ cột quyết định sức bật mới của doanh nghiệp

Hương Dịu

GS.TS. Mạc Quốc Anh - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP. Hà Nội (HANOISME) cho biết, quá trình chuyển đổi số đang đặt doanh nghiệp trước sức ép lớn về vốn, công nghệ và năng lực quản trị, đồng thời mở ra biên độ tăng trưởng mới nếu thể chế được hoàn thiện, không gian dữ liệu được mở rộng và phát triển hệ sinh thái tài chính cho kinh tế số.

Thể chế, vốn và hạ tầng số: Ba trụ cột quyết định sức bật mới của doanh nghiệp - Ảnh 1
GS.TS. Mạc Quốc Anh - Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP. Hà Nội (HANOISME)

Phóng viên: Đâu là những thách thức lớn nhất mà doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) gặp phải khi tiếp cận vốn và đầu tư cho chuyển đổi số, thưa ông?

GS.TS. Mạc Quốc Anh: Chính lực lượng doanh nghiệp đông đảo nhất là các DNNVV lại là nhóm đối mặt nhiều rào cản nhất khi bước vào kinh tế số.

Thách thức đầu tiên và lớn nhất chính là khả năng tài chính. Theo khảo sát của HANOISME, có tới 54% DNNVV Hà Nội chưa có bộ phận công nghệ thông tin chuyên trách, 62% cho biết “không đủ ngân sách” để triển khai chuyển đổi số bài bản. Điều này tạo ra khoảng cách lớn giữa nhu cầu thị trường và năng lực doanh nghiệp.

Thách thức thứ hai đến từ dữ liệu. Kinh tế số vận hành dựa trên dữ liệu, nhưng phần lớn DNNVV còn quản lý thủ công, dữ liệu phân tán, khó phân tích, không thể kết nối với hệ thống số hóa của các cơ quan nhà nước hoặc đối tác quốc tế. Trong bối cảnh kinh tế số, dữ liệu phải trở thành tài sản. Nhưng tại Việt Nam, chỉ khoảng 20% doanh nghiệp coi dữ liệu là yếu tố quan trọng trong quản trị, so với 70 - 80% tại các nền kinh tế phát triển.

Thách thức thứ ba là áp lực lớn từ chi phí tuân thủ trong thời kỳ chuẩn hóa theo các quy định mới: hóa đơn điện tử, an ninh mạng, các tiêu chuẩn ESG (môi trường - xã hội - quản trị), CBAM (cơ chế điều chỉnh biên giới carbon)… Những yêu cầu này đều kéo theo chi phí công nghệ, và chi phí đó thường vượt quá năng lực hiện tại của DNNVV.

Thách thức thứ tư là bài toán nhân lực số - một điểm nghẽn ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiếp nhận vốn và triển khai dự án công nghệ. Hà Nội chỉ cung cấp khoảng một nửa nhu cầu nhân lực công nghệ hằng năm, trong khi nhu cầu thực tế lên tới 40.000 - 45.000 người. Nhiều doanh nghiệp phản ánh tình trạng nhân sự “biết vận hành công nghệ nhưng không biết phân tích dữ liệu”, khiến việc ứng dụng công nghệ chỉ dừng ở mức cơ bản.

Một rào cản khác là việc các doanh nghiệp hoạt động rời rạc, ít liên kết. Trong mô hình kinh tế số, doanh nghiệp chỉ có thể phát triển khi kết nối được với chuỗi cung ứng và nền tảng chung. Nếu DNNVV không tham gia được vào chuỗi liên kết, cơ hội tiếp cận các dòng vốn lớn sẽ rất hạn chế.

Đây là lý do vì sao HANOISME luôn nhấn mạnh cần một chiến lược hỗ trợ toàn diện, trong đó doanh nghiệp là trung tâm, Nhà nước là kiến tạo, hạ tầng số là động lực và nhân lực số là yếu tố quyết định.

Phóng viên: Ông đánh giá như thế nào về vai trò của thể chế kinh tế số đối với khả năng huy động nguồn lực tài chính và phát triển doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay?

 

Nhà nước cần đóng vai trò “kiến tạo và dẫn dắt” bên cạnh vai trò quản lý. Điều này đòi hỏi chuyển đổi sang mô hình điều hành dựa trên dữ liệu, quy trình tự động hóa, tích hợp dữ liệu ngành, lĩnh vực vào kho dữ liệu dùng chung.

Thể chế kinh tế số cũng cần bảo đảm “tính mở - tính an toàn - tính minh bạch”. Mọi quy trình phải được số hóa, đơn giản hóa, có khả năng tích hợp với hệ thống doanh nghiệp và các nền tảng quốc tế.

GS.TS. Mạc Quốc Anh: Kinh tế số không chỉ là ứng dụng công nghệ, mà còn là sự chuyển đổi toàn diện của thể chế, phương thức quản trị và cách nền kinh tế vận hành.

Theo báo cáo của OECD, những quốc gia đi đầu về kinh tế số đều có đặc điểm chung: thể chế thích ứng, môi trường pháp lý linh hoạt, dữ liệu mở, trọng dụng nhân tài và liên kết công - tư mạnh mẽ.

Với doanh nghiệp, đặc biệt là DNNVV, thể chế chính là “điều kiện đủ” để tiếp cận vốn hiệu quả và tham gia vào các dòng chảy tài chính mới của nền kinh tế. Doanh nghiệp chỉ có thể tiếp cận vốn khi môi trường pháp lý rõ ràng, minh bạch, có khả năng tích hợp dữ liệu và giảm chi phí tuân thủ

Vì thế, các doanh nghiệp cũng đang rất cần một cơ chế sandbox cho các lĩnh vực mới như trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ tài chính (Fintech), chuỗi khối (Blockchain) hay Internet vạn vật (IoT)...

Sandbox không chỉ giúp doanh nghiệp thử nghiệm sản phẩm trong phạm vi an toàn mà còn mở lối tiếp cận vốn, bởi các quỹ đầu tư luôn ưu tiên những sản phẩm được kiểm chứng trong môi trường có bảo lãnh pháp lý.

Đặc biệt, phát triển thị trường số phải đi kèm bảo vệ quyền tài sản số (data property rights), an ninh mạng, chống gian lận trên môi trường số.

Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư thiết bị, công nghệ hiện đại cho sản xuất. Ảnh: HD
Nhiều doanh nghiệp đã đầu tư thiết bị, công nghệ hiện đại cho sản xuất. Ảnh: HD

Phóng viên: Đại diện cho tiếng nói cộng đồng doanh nghiệp tại Thủ đô Hà Nội, theo ông, đâu là hướng đi để Hà Nội xây dựng hệ sinh thái tài chính - công nghệ giúp DNNVV đẩy mạnh chuyển đổi số và phát triển bền vững?

GS.TS. Mạc Quốc Anh: Năm 2024, tỷ trọng kinh tế số của Hà Nội đạt 22% GRDP, dự kiến 2025 đạt 25-27%. Hà Nội đang là địa phương dẫn đầu cả nước trong chuyển đổi số và phát triển kinh tế số, nên đang có những quyết tâm mạnh mẽ trong việc xây dựng nền tảng hạ tầng và thể chế hiện đại.

Về hạ tầng số, Hà Nội đã hoàn thành việc phủ sóng 5G tại 30 quận huyện; 100% dịch vụ công mức độ 4; 95% hộ gia đình sử dụng Internet băng rộng. Thành phố cũng xây dựng Kho dữ liệu dùng chung, góp phần cải thiện năng lực cung cấp dịch vụ công trực tuyến và liên thông dữ liệu ngành.

Tuy vậy, Hà Nội vẫn chưa đạt mức “bứt phá” như các trung tâm của Singapore và Seoul (Hàn Quốc). Khoảng 60% DNNVV chưa ứng dụng công nghệ ở mức trung bình trở lên; chỉ khoảng 12% doanh nghiệp sử dụng AI, 8% dùng ERP (hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp), 5% dùng phân tích dữ liệu nâng cao (Big Data - BI). Điều này cho thấy “khoảng cách số” vẫn còn lớn.

Do đó, bước tiếp theo là Hà Nội cần tập trung vào phát triển trung tâm dữ liệu, điện toán đám mây và nền tảng chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan và doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp có thể kết nối trực tiếp với dữ liệu công, họ sẽ hình thành những sản phẩm số, dịch vụ tài chính số hoặc nền tảng AI có khả năng huy động vốn lớn.

Hà Nội cũng cần mở rộng các trung tâm đổi mới, các khu công nghệ cao, các trục đổi mới sáng tạo kết nối trường đại học - doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp được thử nghiệm sản phẩm, được tiếp cận chuyên gia và được hỗ trợ về pháp lý, họ sẽ có điều kiện huy động vốn thông qua quỹ đầu tư mạo hiểm, trái phiếu công nghệ hay các nền tảng gọi vốn cộng đồng.

Chính quyền Thủ đô cũng cần tăng cường hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp trong chuyển đổi số. Hà Nội có thể xây dựng Quỹ Hỗ trợ chuyển đổi số, cho vay ưu đãi lãi suất 0-3% đối với các dự án ERP, CRM (hệ thống quản lý quan hệ khách hàng), dữ liệu lớn, an ninh mạng… Đồng thời cần hoàn thiện các chính sách ưu đãi thuế, phí cho doanh nghiệp đầu tư đổi mới sáng tạo.

Vai trò của hiệp hội doanh nghiệp vẫn mang tính quyết định. Hiệp hội chính là cầu nối, là nơi truyền thông, đào tạo, tạo mạng lưới liên kết và phản ánh tiếng nói của doanh nghiệp. Khi tiếng nói đó được kết nối với chiến lược phát triển của Thành phố, khi doanh nghiệp được hỗ trợ đúng nhu cầu, Hà Nội sẽ có một lực lượng DNNVV đủ năng lực tài chính, đủ nền tảng công nghệ và đủ sức cạnh tranh trong kỷ nguyên số.

Phóng viên: Xin trân trọng cảm ơn những chia sẻ của ông!