Sau quá trình sáp nhập hình thành nhiều trung tâm công nghiệp quy mô lớn
Sau quá trình sáp nhập từ ngày 1/7/2025, với việc mở rộng địa giới hành chính, cơ cấu sản xuất công nghiệp tại nhiều địa phương có sự thay đổi rõ nét, góp phần hình thành các trung tâm công nghiệp quy mô lớn hơn, phân bố hợp lý hơn giữa các vùng kinh tế trọng điểm.

Mặc dù trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục có nhiều biến động, các yếu tố rủi ro về tăng trưởng kinh tế, nợ công, chuỗi cung ứng hàng hóa diễn biến khó lường, ảnh hưởng nặng nề đến các quốc gia, khu vực nhưng ngành công nghiệp nước ta duy trì xu hướng tích cực và đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế.
Trong 10 tháng năm 2025, sản xuất công nghiệp tại các tỉnh, thành phố có quy mô lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Bình Dương và Hải Phòng ghi nhận những diễn biến tích cực, phản ánh nỗ lực phục hồi và duy trì đà tăng trưởng của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo. Đặc biệt, sau quá trình sáp nhập, với việc mở rộng địa giới hành chính, cơ cấu sản xuất công nghiệp tại nhiều địa phương có sự thay đổi rõ nét, góp phần hình thành các trung tâm công nghiệp quy mô lớn hơn, phân bố hợp lý hơn giữa các vùng kinh tế trọng điểm.
Theo số liệu của Cục Thống kê, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tháng 10/2025 của hầu hết các địa phương có quy mô công nghiệp lớn đều tăng so với tháng trước và so với cùng kỳ năm trước, cho thấy các doanh nghiệp công nghiệp của các địa phương này đã có sự thích nghi và tăng trưởng tích cực. Cụ thể, so với tháng trước và cùng kỳ năm trước, IIP của Quảng Ninh tăng 13,3% và 16,1%; Vĩnh Long tăng 11,6% và 6,8%; Cần Thơ tăng 4,5% và 9,6%; Bắc Ninh tăng 4,4% và 16,5%; Hải Phòng tăng 3,8% và 15,0%; Quảng Ngãi tăng 2,7% và 10,8%; Đồng Nai tăng 2,5% và 14,4%; Thành phố Hồ Chí Minh tăng 1,5% và 7,5%.
Tỉnh Bắc Ninh (sau hợp nhất hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh cũ) là địa phương có tốc độ tăng IIP 10 tháng cao nhất với tốc độ tăng đạt 16,5% so với cùng kỳ năm trước, phản ánh tình hình kinh tế trên địa bàn tỉnh tiếp tục xu hướng ổn định. Mặc dù vậy, sản xuất công nghiệp Bắc Ninh vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn khi một số nhóm ngành hiện gặp khó khăn về thị trường, chi phí sản xuất cũng như tính bền vững trong phát triển. Cụ thể: Nhóm ngành khai khoáng so với tháng trước giảm 21,9% và so với cùng kỳ năm trước giảm 34,3%; xu hướng này cũng tương tự đối với ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (-1,6% và -9,8%). Riêng 2 nhóm ngành: sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hoà không khí và nhóm cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải so với tháng trước đều giảm 6,2% nhưng so với cùng kỳ tăng tương ứng 6,3% và 1,6%. Trong khi đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, lĩnh vực chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu công nghiệp có xu hướng tăng nhanh trong năm 2022 nhưng sụt giảm mạnh trong năm 2023 và phục hồi dần từ năm 2024, thể hiện xu hướng tăng trưởng thiếu tính bền vững, phụ thuộc phần lớn vào nhu cầu thị trường; đơn hàng xuất khẩu và chi phí đầu vào… Đây là những nguyên nhân chính khiến ngành này chưa lấy lại đà tăng trưởng ổn định.
Chỉ số sản xuất công nghiệp 10 tháng năm 2025
của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn (%)
Nhờ triển khai nhiều biện pháp thúc đẩy sản xuất kinh doanh, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và mở rộng thị trường, sản xuất công nghiệp trên địa bàn thành phố Hải Phòng (sau hợp nhất với tỉnh Hải Dương cũ) đã duy trì ở mức tăng trưởng khá trong 10 tháng năm 2025 (tăng 15,0% so với cùng kỳ năm trước). Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục giữ vai trò động lực chính, là trụ cột tăng trưởng của toàn ngành công nghiệp với tốc độ tăng 16,6%, đóng góp 15,34 điểm phần trăm vào mức tăng chung toàn ngành.
Khu vực công nghiệp tiếp tục là trụ cột tăng trưởng kinh tế của Đồng Nai sau khi hợp nhất đơn vị hành chính (từ tỉnh Đồng Nai và Bình Phước cũ), phù hợp định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn phát triển bền vững. Tính chung 10 tháng năm 2025, chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 14,4% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó: Ngành công nghiệp khai khoáng tăng 5,7%; Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,7%; Ngành sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 7,5%; Ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,7%.
Tại tỉnh Quảng Ngãi (sau hợp nhất với tỉnh Kon Tum), các doanh nghiệp công nghiệp bước vào giai đoạn cao điểm sản xuất để hoàn thành đơn hàng và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cuối năm. Với lợi thế là trung tâm công nghiệp của khu vực miền Trung, thu hút nhiều dự án đầu tư trong lĩnh vực lọc – hoá dầu, cơ khí, chế biến và năng lượng. Nhờ đó, hoạt động sản xuất công nghiệp trong 10 tháng năm 2025 tăng trưởng ổn định, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tăng 10,8% so với cùng kỳ năm trước.
Thành phố Cần Thơ (sau sáp nhập với Hậu Giang và Sóc Trăng cũ) cũng là địa phương có tốc độ tăng IIP 10 tháng năm 2025 đạt khá so với các địa phương trên cả nước nói chung và so với các địa phương có quy mô công nghiệp lớn nói riêng (tăng 9,6%). Trong đó, ngành khai khoáng giảm 18,2% so với cùng kỳ năm trước; ngành chế biến, chế tạo tăng 10,3%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 1,8%; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,0%.















