Logistics xanh - "giấy thông hành" thương mại
Logistics xanh không còn là câu chuyện về trách nhiệm xã hội, mà đã trở thành một 'giấy thông hành' thương mại cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.

Đó là nội dung chia sẻ của ông Trương Tấn Lộc - Phó Chủ tịch Hiệp hội Logistics TP. Hồ Chí Minh tại Hội thảo chuyên đề “Logistics xanh – xu hướng phát triển bền vững cho doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu” ngày 5/9.
Tiết kiệm hàng triệu USD
Theo ông Trương Tấn Lộc, dù đã xếp hạng 43/139 về Chỉ số Hiệu quả Logistics (LPI), vẫn còn đối mặt với những điểm yếu cố hữu về chất lượng cơ sở hạ tầng và dịch vụ, dẫn đến lãng phí và phát thải carbon không cần thiết.
Phân tích sâu về các rào cản quốc tế, ông Trương Tấn Lộc chỉ rõ áp lực từ Liên minh châu Âu (EU) đang thiết lập lại các quy chuẩn mới. Cụ thể là Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM), sẽ có hiệu lực đầy đủ từ năm 2026, hoạt động như một loại thuế carbon áp lên hàng hóa nhập khẩu vào EU. Doanh nghiệp xuất khẩu sẽ phải mua và nộp “chứng chỉ CBAM” tương ứng với lượng phát thải carbon trong sản phẩm.
Song song đó, Chỉ thị về Thẩm định Tính bền vững của doanh nghiệp (CSDDD) buộc các công ty phải chịu trách nhiệm về các tác động tiêu cực đến môi trường trong toàn bộ chuỗi cung ứng và áp dụng các tiêu chuẩn ESG (Môi trường - Xã hội - Quản trị) một cách nghiêm ngặt.
Ông Trương Tấn Lộc cho rằng, những quy định như CBAM và CSDDD đang tái định giá carbon trên quy mô toàn cầu. Điều này có nghĩa, logistics xanh không còn là câu chuyện về trách nhiệm xã hội, mà đã trở thành một 'giấy thông hành' thương mại. Tuân thủ là điều kiện cần để không bị phạt hoặc bị cấm xuất khẩu.
Tuy vậy, ở góc độ rộng hơn, ông Lộc cho rằng, việc xây dựng một chuỗi cung ứng minh bạch, bền vững với lượng phát thải thấp chính là điều kiện đủ để các nhà mua hàng quốc tế lựa chọn các doanh nghiệp Việt Nam. Dữ liệu logistics xanh sẽ trở thành một chỉ số hiệu suất, trực tiếp nâng cao giá trị thương hiệu và năng lực đàm phán của doanh nghiệp Việt.
Lấy dẫn chứng từ Cảng Tân Cát Lái, ông Lộc tiết lộ, đã giảm thời gian giao nhận từ vài tiếng xuống chỉ còn 15-20 phút nhờ áp dụng 100% giao dịch qua ePort, đồng thời tiết kiệm 1,5 đến 2 triệu USD chi phí nhiên liệu mỗi năm và giảm đáng kể khí thải CO2 nhờ hệ thống cẩu bờ và cẩu bãi chạy hoàn toàn bằng điện. Tương tự, việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong tối ưu hóa lộ trình có thể giúp giảm 15% lượng nhiên liệu tiêu thụ và 25% thời gian giao hàng.
Khẳng định sự quan tâm của Chính phủ đến logistics xanh, ông Trần Phú Lữ - Giám đốc ITPC nhấn mạnh: Hiện nay, phát triển logistics “xanh” là xu hướng tất yếu và là tiêu chí quan trọng đánh giá sự phát triển bền vững của toàn ngành logistics.
Logistics xanh ngày càng được Chính phủ và các doanh nghiệp tập trung quan tâm, đầu tư một cách chuyên nghiệp. Hệ thống cảng biển cũng ngày càng được cải thiện, được chú trọng đầu tư, cải tiến liên tục, tiếp cận những dịch vụ vận tải tiên tiến, hiện đại và thân thiện môi trường hơn.
Song song đó, hiện nay các doanh nghiệp logistics Việt Nam đang chủ động đổi mới phương thức vận hành, mở rộng hợp tác quốc tế và tận dụng công nghệ để nâng cao năng lực cạnh tranh. Điều này phản ánh bước chuyển tích cực của ngành logistics trong việc thích ứng với bối cảnh toàn cầu và yêu cầu ngày càng cao từ thị trường xuất khẩu.
Đồng bộ giải pháp hỗ trợ
Đánh giá của các chuyên gia cho thấy, thách thức lớn nhất hiện nay là sự phụ thuộc quá lớn vào đường bộ và bài toán kết nối hạ tầng logistics còn nhiều bất cập.
Để giải quyết vấn đề trên, đại diện HLA đã đưa ra một loạt kiến nghị - đề xuất chiến lược. Trước hết là cần xây dựng một bộ tiêu chí chung để đo lường logistics xanh trên toàn quốc.
Về tài chính, ông Lộc đề xuất cần có các chính sách tài chính xanh đột phá để tháo gỡ rào cản chi phí đầu tư ban đầu cho doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Cùng với đó, việc sớm hoàn thiện hành lang pháp lý cho thị trường tín chỉ carbon sẽ tạo ra nguồn doanh thu mới để tái đầu tư vào công nghệ sạch.
Về hạ tầng, HLA kiến nghị Chính phủ đẩy nhanh tiến độ các dự án hạ tầng logistics trọng điểm, ưu tiên các vị trí có khả năng kết nối vận tải đa phương thức để giảm tải cho đường bộ. Một đề xuất quan trọng là xây dựng một “Hệ sinh thái Dữ liệu Logistics” dùng chung cho cả Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam để tối ưu hóa vận hành.
Là một trong đơn vị góp phần giảm chí phí logistics cho doanh nghiệp thông qua công tác cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ hiện đại, ông Bùi Tuấn Hải- Phó Chi cục trưởng Chi cục Hải quan Khu vực II khẳng định, trước áp lực khổng lồ từ lưu lượng giao thương quốc tế ngày càng tăng, ngành Hải quan đã thực hiện một cuộc cách mạng số hóa toàn diện.
Hướng tới mục tiêu xây dựng “Hải quan số, Hải quan thông minh” vào năm 2030, Chi cục Hải quan Khu vực II sẽ tích cực tham gia triển khai các công nghệ của Cách mạng công nghiệp 4.0 như trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, và chuỗi khối vào hoạt động nghiệp vụ.
Ông Hải dẫn chứng, Hải quan tại Bahamas, nhờ ứng dụng công cụ phân tích AI, từ năm 2020 đến nay, nơi này đã phát hiện và thu hồi hơn 115 triệu USD tiền thuế gian lận. Ngoài ra, một nghiên cứu cũng chỉ ra rằng các doanh nghiệp ứng dụng AI trong quản lý chuỗi cung ứng đã giảm được 15% chi phí logistics, cải thiện 35% mức tồn kho và tăng 65% mức độ dịch vụ; những lợi ích này có tác động trực tiếp đến hiệu quả của hoạt động thương mại và quản lý hải quan.
Để khai thác tối đa lợi ích từ hệ sinh thái số, ông Hải nhấn mạnh rằng doanh nghiệp không thể tiếp cận một cách bị động mà phải đóng vai trò tiên phong chủ động trong tiếp cận chính sách, công nghệ…