Kinh nghiệm bao phủ bảo hiểm y tế của một số nước- Thách thức trong tiến trình bảo hiểm y tế ở Việt Nam

Hương Nguyễn

Chính sách bảo hiểm y tế (BHYT) với cơ chế tài chính độc lập với ngân sách nhà nước (NSNN), đã trở thành chính sách an sinh xã hội được quan tâm hàng đầu không chỉ ở Việt Nam mà còn đối với các nước trên thế giới. Tuy nhiên, để mở rộng phạm vi bao phủ của BHYT đến toàn dân, các nước đều phải xây dựng lộ trình, trải qua nhiều giai đoạn cải cách, đổi mới hoàn thiện để chính sách BHYT thực sự là “phao cứu sinh” của người dân.

Người dân làm thủ tục khám chữa bệnh tại bệnh viện.
Người dân làm thủ tục khám chữa bệnh tại bệnh viện.

Kinh nghiệm bao phủ BHYT ở một số nước

Thái Lan

Thái Lan bắt đầu triển khai BHYT toàn dân từ năm 1996 và đến năm 2003 thì thực hiện thành công, bằng việc thực hiện chương trình 30 bath (tương đương 0,75%). Đây là chương trình chăm sóc sức khỏe cho tất cả công dân Việt Nam chưa tham gia chương trình BHYT mà chủ yếu là nông dân và người lao động tự do bằng nguồn tiền từ NSNN. Những người tham gia chương trình này phải đăng ký với các cơ sở y tế, họ được cấp thẻ BHYT và đóng khoản tiền khoảng 30 bath cho mỗi lần khám chữa bệnh ngoại trú hoặc điều trị nội trú, thuốc theo đơn kê được cấp miễn phí. Kết quả là tỷ lệ người dân không có BHYT ở Thái Lan đã giảm từ mức 30% năm 2000 xuống còn 5% năm 2003.

Để quản lý người tham gia BHYT, Thái Lan chia người dân thành các nhóm đối tượng khác nhau, do các bộ khác nhau quản lý. BHYT cho công chức viên chức, người lao động trong các doanh nghiệp nhà nước, bao gồm cả thân nhân của họ như bố, mẹ, vợ, chồng, con do Bộ Tài chính quản lý. BHYT cho người lao động ở các doanh nghiệp ngoài nhà nước do Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội thực hiện thông qua cơ quan Bảo hiểm xã hội. BHYT cho số dân còn lại do Bộ Y tê quản lý. Quyền lợi hưởng BHYT bao gồm chăm sóc sức khỏe ban đầu, khám chữa bệnh nội trú và ngoại trú.

CHLB Đức

Kể từ năm 2009, tất cả người dân cư trú tại CHLB Đức đều có nghĩa vụ tham gia BHYT, kể cả người cư trú ngắn hạn. Người dân có thể tham gia BHYT công (theo luật định) hoặc BHYT tư nhân, trong đó phần lớn là người dân tham gia BHYT công và chỉ khoảng 11% người dân tham gia BHYT tư nhân. Việc tham gia BHYT tư nhân cũng được tính vào số người đã tham gia BHYT bắt buộc. Tuy nhiên khi tham gia BHYT tư nhân, người tham gia phải đáp ứng những điều kiện nhất định, thường liên quan đến thu nhập, ví dụ như phải có thu nhập cao hơn 64.350 euro/năm. Nói cách khác, tất cả người lao động có thu nhập hàng năm không vượt quá một mức nhất định (mức giới hạn tiền lương làm căn cứ đóng BHYT theo nghĩa vụ) đều phải tham gia BHYT theo Luật. Các nghệ sĩ và nhà báo tự do, sinh viên, người thất nghiệp và người hưu trí cũng là thành viên của BHYT theo luật. Vợ/chồng và con được đồng BHYT miễn phí khi họ có thu nhập thấp hoặc không có thu nhập. Giới hạn độ tuổi cho con được đồng BHYT gia đình là dưới 18 tuổi hoặc nếu con bj khuyết tật, không thể tự chăm sóc bản thân thì được đồng BHYT vĩnh viễn cùng bố mẹ.

Mức phí BHYT công được quy định theo nhóm đối tượng và tính theo tỷ lệ so với thu nhập, với người làm công hưởng lương thì người sử dụng lao động sẽ đóng ½ và người lao động đóng ½. Mức phí BHYT tư nhân không dựa trên thu nhập như BHYT xã hội, mà dựa trên tuổi tác, tình trạng sức khỏe và lợi ích mong muốn của người tham gia. Người tham gia BHYT theo luật định có thể được sử dụng các dịch vụ y tế theo yêu cầu bằng cách mua BHYT tư nhân bổ sung.

Đối với BHYT tư, sẽ có nhiều mức phí khác nhau, từ cơ bản cho đến mức đặc biệt, và lợi ích y tế khi sử dụng bảo hiểm cũng sẽ khác nhau. Ở mức cơ bản, bảo hiểm tư có thể so sánh ngang với bảo hiểm công, và ở mức đặc biệt thì bệnh nhân có quyền lựa chọn bác sĩ điều trị, chọn bệnh viện, giường bệnh hay các dụng cụ hỗ trợ chữa bệnh.

Như vậy, mặc dù 100% người dân Đức tham gia BHYT nhưng không bắt buộc mọi người phải tham gia BHYT công; những người có thu nhập cao có thể lựa chọn tham gia BHYT tư nhân để được hưởng quyền lợi cao hơn.

Thách thức trong tiến trình BHYT toàn dân ở Việt Nam

Từ năm 1992, nước ta đã tiến hành cải cách hệ thống tài chính y tế, thay vì Nhà nước bao chi phí khám chữa bệnh thì người bệnh phải có trách nhiệm chi trả chi phí này. Để huy động nguồn lực của người dân, đảm bảo mọi người dân đều được khám chữa bệnh khi ốm đau, bệnh tật, chính sách BHYT ra đời theo Điều lệ BHYT, ban hành theo Nghị định số 299/HĐBT ngày 15/8/1992 của Hội đồng Bộ trưởng. Để thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân, năm 2008 Quốc hội thông qua Luật BHYT số 25/2008/QH12, quy định 2 hình thức tham gia BHYT là bắt buộc và tự nguyện, và có lộ trình áp dụng bắt buộc đối với các nhóm đối tượng. Năm 2014, Luật số 46/2014/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT 2008, được Quốc hội thông qua, chỉ quy định hình thức tham gia BHYT bắt buộc; người dân được chia làm 6 nhóm đối tượng tham gia theo trách nhiệm đóng góp.

Để thực hiện BHYT toàn dân, Việt Nam vẫn còn nhiều thách thức

Thứ nhất, nhận thức của người dân về BHYT

Tham gia BHYT không chỉ mang lại lợi ích cho người dân khi ốm đau, bệnh tật, mà còn là trách nhiệm của công dân. Theo luật BHYT năm 2014, việc tham gia BHYT là bắt buộc nên người dân phải có trách nhiệm tham gia. Tuy vậy, hiện vẫn chưa có chế tài xử phạt nếu người dân không tham gia BHYT nên nhiều người cho rằng việc tham gia BHYT là tự nguyện, họ chỉ tham gia khi bị ốm đau, bệnh tật, có nguy cơ điều trị khám chữa bệnh thường xuyên. Đây là sự “lựa chọn ngược”.

Bên cạnh đó, vẫn còn tình trạng trục lợi BHYT. Một số bệnh viện, cơ sở y tế tổ chức thu gom người có thẻ BHYT đến khám chữa bệnh bằng hình thức tặng quà, miễn phí xe đưa đón; cơ sở y tế chỉ định sử dụng dịch vụ y tế, kỹ thuật cao vượt qua yêu cầu điều trị...để thanh toán chi phí với cơ quan BHXH. Những hành vi này sẽ ảnh hưởng đến cân đối quỹ BHYT, và về lâu dài sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia BHYT.

Thứ hai, công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu

Công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân chưa được chú trọng, do đó nhiều người phát hiện bệnh khi bệnh đã nặng, dẫn đến chi phí điều trị cao ảnh hưởng đến đời sống nhân dân cũng như quỹ BHYT. Hiện tại, công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu và y tế dự phòng vẫn do Nhà nước thực hiện, chưa có sự tham gia của BHYT. Do đó, một số bộ phận người dân chưa sẵn sàng tham gia BHYT.

Hệ thống cơ sở y tế và đội ngũ cán bộ y tế ở nước ta còn thiếu, trang thiết bị tại các cơ sở y tế tuyến dưới chưa được đầu tư thỏa đáng, ảnh hưởng đến chất lượng khám chữa bệnh. Hơn nữa, việc tổ chức và cơ chế trong hệ thống khám chữa bệnh chưa cân đối, gây nên tình trạng vượt tuyến, quá tải tuyến trên, trong khi tuyên dưới vắng bệnh nhân. Chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng nhu cầu của các tầng lớp nhân dân, người có thu nhập cao; vẫn còn sự chênh lệch về chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe giữa các vùng miền.

Thứ ba, hệ thống cơ sở khám chữa bệnh

Hệ thống cơ sở y tế và đội ngũ cán bộ y tế ở nước ta còn thiếu, trang thiết bị tại các cơ sở y tế tuyến dưới chưa được đầu tư thỏa đáng, ảnh hưởng đến chất lượng khám chữa bệnh. Hơn nữa việc tổ chức và cơ chế trong hệ thống chưa cân đối, gây nên tình trạng vượt tuyến, quá tải tuyến trên trong khi không sử dụng hết công suất tuyến dưới. Chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng nhu cầu của các tang lớp nhân dân, người có thu nhập cao, vẫn còn sự chệnh lệch về chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khor giữa các vùng miền…dẫn đến người có điều kiện kinh tế không mặn mà tham gia BHYT.