Huy động tối đa các động lực cho tăng trưởng
Chỉ còn hai tháng cuối cùng của năm 2025, Việt Nam đứng trước thách thức hoàn thành mục tiêu tăng trưởng hơn 8% trong bối cảnh nhiều biến động bên ngoài và áp lực nội tại gia tăng. Do vậy, muốn “về đích”, nền kinh tế cần huy động tối đa các động lực tăng trưởng.

Số liệu từ Cục Thống kê cho thấy, GDP quý III/2025 ước tăng 8,23% so với cùng kỳ - là mức tăng cao thứ hai kể từ năm 2011, chỉ sau quý III/2022 (14,38%). GDP 9 tháng năm 2025 ước tăng 7,85% so với cùng kỳ năm trước. Với kết quả này, tốc độ tăng trưởng kinh tế 9 tháng năm nay chỉ thấp hơn mức 9,44% của cùng kỳ năm 2022 trong giai đoạn 2011 - 2025.
Theo đánh giá, mức tăng trưởng 7,85% trong 9 tháng đã tiến sát kịch bản mục tiêu 8%. Nền kinh tế quý III và 9 tháng năm 2025 ghi nhận nhiều tín hiệu tích cực: sản xuất công nghiệp tiếp tục là điểm sáng chủ đạo trong bức tranh toàn cảnh, hoạt động du lịch khởi sắc; chính sách tiền tệ và tài khóa tiếp tục được duy trì; mặt bằng lãi suất ổn định ở mức thấp giúp giảm gánh nặng chi phí vốn cho doanh nghiệp, tạo điều kiện phục hồi và mở rộng sản xuất. Nhìn từ phía cầu, tiêu dùng, đầu tư và xuất khẩu tiếp tục là ba trụ cột quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Bộ Tài chính đã xây dựng và trình hai kịch bản tăng trưởng kinh tế năm 2025. Theo đó, kịch bản thứ nhất đặt mục tiêu tăng trưởng đạt 8%, còn kịch bản thứ hai dự kiến mức tăng trưởng 8,3 - 8,5%. Bộ Tài chính kiến nghị Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tập trung nguồn lực, quyết liệt thực hiện theo kịch bản 2 nhằm tạo đà để tăng trưởng kinh tế năm 2026 đạt từ 10% trở lên.
Theo các chuyên gia kinh tế, mục tiêu tăng trưởng GDP cả năm 2025 đạt 8,3 - 8,5% là một thách thức rất lớn. Để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng 8% cho cả năm, kinh tế Việt Nam cần đạt tăng trưởng khoảng 8,4% trong quý IV - mức cao nhất kể từ năm 2011 trở lại đây. Để tăng trưởng cả năm 2025 đạt 8,3% thì quý IV phải tăng 9,5%. Còn để tăng trưởng cả năm đạt 8,5% thì quý IV phải đạt 10,2%. Đây là mục tiêu mang tính tham vọng nhưng cũng đầy thách thức, nhất là trong bối cảnh kinh tế toàn cầu còn tiềm ẩn nhiều rủi ro, biến động địa chính trị và áp lực suy giảm thương mại quốc tế.
Ở góc độ chính sách vĩ mô, chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long cho rằng, đầu tư công phải được giải ngân nhanh, đúng trọng tâm nhằm tháo gỡ nút thắt hạ tầng và tạo hiệu ứng dẫn dắt vốn tư nhân. Đồng thời, cần có chính sách thị trường hỗ trợ xuất khẩu và tiêu dùng như: Giảm thuế giá trị gia tăng đưa trực tiếp vào giá bán, hoàn thuế nhanh, hạ chi phí logistics, đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế. Đặc biệt, việc công khai bảng điều khiển hằng tuần về tiến độ giải ngân, tín dụng, xuất khẩu, giá cả, CPI… sẽ giúp tăng sức ép hoàn thành và giảm độ trễ chính sách.
Về sản xuất - xuất khẩu, cần tập trung phát triển các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo định hướng xuất khẩu nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng cao của kim ngạch xuất khẩu trong bối cảnh nhu cầu thế giới đang phục hồi. Ngoài ra, tận dụng tối đa lợi thế từ các hiệp định thương mại tự do đã ký kết để mở rộng thị trường, giảm rào cản thương mại và tăng tính cạnh tranh cho hàng hóa Việt Nam.
Bên cạnh đó, cần bảo đảm khả năng tiếp cận vốn vay với chi phí hợp lý cho doanh nghiệp xuất khẩu, duy trì ổn định tỷ giá và chính sách tiền tệ linh hoạt nhằm tạo niềm tin cho nhà đầu tư và giảm thiểu rủi ro cho hoạt động kinh doanh; hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực đáp ứng tiêu chuẩn xanh, kinh tế tuần hoàn và truy xuất nguồn gốc...
Song song với đó, tiếp tục đổi mới các biện pháp thúc đẩy tiêu dùng trong nước, không chỉ thông qua các chương trình khuyến mãi, trợ giá, hội chợ - triển lãm mà còn kết hợp yếu tố văn hóa, nghệ thuật và chuyển đổi số trong hoạt động thương mại. Khuyến khích liên kết vùng, liên kết chuỗi giữa các doanh nghiệp sản xuất - phân phối - logistics nhằm mở rộng quy mô thị trường và tăng sức mua của người dân. Đồng thời, cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số trong quản lý, sản xuất, thương mại và dịch vụ; đầu tư mạnh mẽ cho hạ tầng số, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao…

















