Góp ý Dự thảo Văn kiện Đại hội Đảng: Tầm nhìn mới về hội nhập quốc tế

Hoàng Minh

Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV nhấn mạnh đưa đối ngoại, hội nhập quốc tế lên ngang hàng quốc phòng - an ninh, phản ánh tầm nhìn chiến lược và khát vọng nâng tầm đất nước trong thời kỳ mới.

Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng và Nhà nước góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, ngày 6/11.
Bộ Chính trị, Ban Bí thư tổ chức Hội nghị các đồng chí nguyên lãnh đạo Đảng và Nhà nước góp ý kiến vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, ngày 6/11.

Động lực chiến lược trong tầm nhìn phát triển của Đảng

Gần 8 thập kỷ sau Tuyên ngôn Độc lập, hành trình phát triển của Việt Nam đã chứng minh sức mạnh của đường lối Đổi mới toàn diện, trong đó hội nhập quốc tế được xác định là một động lực then chốt.

Từ một nền kinh tế còn nhiều hạn chế, Việt Nam vươn lên thành quốc gia có độ mở cao, nằm trong nhóm 34 nền kinh tế lớn nhất thế giới; quy mô GDP tăng gần 100 lần so với năm 1986, thu nhập bình quân đầu người tiệm cận 5.000 USD.

Những kết quả ấy phản ánh tư duy hội nhập nhất quán của Đảng. Từ chủ trương “hội nhập kinh tế quốc tế” tại Đại hội IX đến định hướng “hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả” tại Đại hội XIII, tư duy đối ngoại của Việt Nam liên tục được cập nhật, phát triển theo hướng chủ động, linh hoạt và thích ứng với bối cảnh mới. Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị năm 2013 đã cụ thể hóa bước đi này; tiếp đó, Nghị quyết số 59-NQ/TW năm 2025 xác lập hội nhập quốc tế là một trong những trụ cột chiến lược mới.

Dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV tiếp tục đánh dấu bước chuyển quan trọng, khi đề xuất đặt “đối ngoại, hội nhập quốc tế” ngang hàng với “quốc phòng, an ninh”. Đây không chỉ là sự điều chỉnh kỹ thuật, mà còn là sự khẳng định nhận thức mới: Hội nhập là phương thức mở rộng quan hệ, cũng là trụ cột phát triển, gắn chặt với yêu cầu củng cố sức mạnh tổng hợp quốc gia.

Tác động của hội nhập thể hiện rõ trong thực tiễn kinh tế. Với 17 hiệp định thương mại tự do kết nối hơn 60 nền kinh tế, Việt Nam tham gia ngày càng sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, nằm trong nhóm 20 quốc gia thương mại lớn nhất và là điểm đến FDI hàng đầu khu vực.

Trong 10 tháng năm 2025, kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 762,44 tỷ USD, tăng 17,4%; vốn FDI thực hiện đạt 21,3 tỷ USD, mức cao nhất trong 5 năm. Nhiều tổ chức quốc tế như WB, ADB, HSBC hay Standard Chartered đều nâng dự báo tăng trưởng GDP năm 2025 của Việt Nam lên trên 7%, củng cố mục tiêu tăng trưởng từ 8% trở lên và hướng tới mức tăng trưởng “hai con số” trong giai đoạn 2026–2030.

Nhưng hội nhập không chỉ là con số. Đó là sự đổi mới về tư duy phát triển, từ mở cửa kinh tế đến hội nhập toàn diện về chính trị, ngoại giao, văn hóa, khoa học, công nghệ. Trong bài viết “Vươn mình trong hội nhập quốc tế”, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định hội nhập là quá trình khơi thông quan hệ với các quốc gia, tranh thủ nguồn lực bên ngoài cho phát triển, đồng thời nâng cao vai trò và vị thế của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.

Từ góc nhìn quốc tế, nhiều chuyên gia đánh giá cao chuyển động chiến lược của Việt Nam. Giáo sư Carl Thayer - Học viện Quốc phòng Australia cho rằng, Việt Nam đã trở thành nhân tố tích cực trong cấu trúc khu vực, với chiến lược đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối tác và khả năng thúc đẩy chủ nghĩa đa phương trong bối cảnh địa chính trị phức tạp.

Ông Shantanu Chakraborty - Giám đốc Quốc gia ADB tại Việt Nam nhận định Việt Nam đã hội nhập sâu hơn vào mạng lưới sản xuất toàn cầu, thể hiện qua hoạt động thương mại sôi động và sự phục hồi của công nghiệp chế biến - chế tạo.

Tư duy mới trong kỷ nguyên mới

Xác lập “đối ngoại, hội nhập quốc tế” là trụ cột chiến lược một lần nữa phản ánh tầm nhìn chiến lược của Đảng ta trước yêu cầu phát triển quốc gia trong thời kỳ mới: Từ “thụ hưởng” sang “kiến tạo”, từ tham gia sang chủ động định hình và dẫn dắt trong những lĩnh vực Việt Nam có lợi thế. Khi hội nhập trở thành nền tảng chiến lược, các lĩnh vực kinh tế số, khoa học - công nghệ, chuyển đổi xanh, văn hóa… đều cần được thiết kế với chiều kích đối ngoại ngay từ đầu.

PGS. Nguyễn Đăng Bằng - Giảng viên Đại học Cambridge đánh giá, Nghị quyết số 59-NQ/TW là bước đột phá trong tư duy hội nhập của Việt Nam. Theo chuyên gia này, Việt Nam cần thực thi nghị quyết với lộ trình bài bản, nâng chất lượng đội ngũ cán bộ và kiên định chính sách đối ngoại cân bằng, không chọn phe; giữ gìn hòa bình, ổn định để phát triển. Đồng thời, hội nhập phải thực chất và dựa trên khả năng nâng cao vị trí trong chuỗi cung ứng toàn cầu, đặc biệt ở các ngành công nghệ cao như bán dẫn và trí tuệ nhân tạo.

Ở tầm thể chế, nhiều ý kiến cho rằng Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện năng lực quản trị quốc gia, tăng cường hiệu quả phân bổ nguồn lực và tận dụng quan hệ với các đối tác chiến lược, nhất là trong phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và đào tạo nhân lực chất lượng cao.

Sau 40 năm Đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử: Độc lập - chủ quyền được giữ vững; môi trường hòa bình ổn định; kinh tế tăng trưởng; đời sống nhân dân được cải thiện; uy tín và vị thế quốc tế được nâng cao. Việt Nam trở thành bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Việc đặt hội nhập quốc tế ngang hàng quốc phòng - an ninh là lựa chọn phù hợp với xu thế phát triển toàn cầu: xây dựng thế và lực mới cho đất nước, mở rộng không gian phát triển, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và khẳng định vai trò Việt Nam trong kiến tạo hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững. Đó cũng là bước đi đòi hỏi quyết tâm cao, triển khai đồng bộ và sự tham gia của cả hệ thống chính trị, nhằm định vị tầm vóc mới của Việt Nam trên bản đồ thế giới trong những thập kỷ tới.